Tuesday, July 28, 2015

Dục Thúy Sơn

Dục Thúy Sơn, núi Dục Thúy hay núi Thúy như người dân Ninh Bình thường gọi là ngọn núi cao chừng 50m, lên đỉnh hơn 70 bậc cấp, núi nằm ngay ngã ba sông Vân với sông Đáy, giữa hai cây cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Ngày xưa, núi là một vọng gác tiền tiêu bảo vệ thành Hoa Lư. Đặc biệt đây là nơi chứng kiến cuộc chuyển giao chế độ quan trọng trong lịch sử đất nước: từ bến Vân Sàng dưới chân núi, hoàng hậu nhà Đinh Dương Vân Nga đã trao áo Long Bào và chờ đợi ngày về cho tướng quân Lê Hoàn cầm quân đánh đuổi quân xâm lược nhà Tống lần thứ nhất, mở ra chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc.

Từ QL 1A rẽ qua đường Lê Hồng Phong, chỉ mấy phút là thấy núi Dục Thúy bên tay trái, giữa đền Trương Hán Siêu(1) và chùa Non Nước.



Thơ dưới chân núi



Dưới chân núi có quán giải khát bình dân, có người trông xe miễn phí, tuy nhiên không thấy có khách nào. Tôi hỏi người giữ xe “Lên núi có bao nhiêu bậc” – “Chín chục bậc, bác đi thoải mái không mệt đâu.” Tôi gửi xe và lên núi. Ngay chỗ mấy bậc cấp đầu tiên, có 5 bài thơ chữ Hán trên vách đá. Nét chữ phần lớn đã mờ, những người thông thạo Hán tự may ra mới đọc nổi.

Lên đến bậc đá cuối cùng, hai hình ảnh đập ngay vào mắt tôi, hai hình ảnh ngoài nghĩ tưởng của mình: một lô cốt thời Pháp, một tượng bán thân của nhân vật chưa từng nghe trong lịch sử nước nhà.(2) Đỉnh núi bằng phẳng nhiều cây xanh, có một nhà nghinh phong bị rào quanh do quá cũ kỹ, sợ nguy hiểm cho du khách. Một mình tôi dạo chơi trên đỉnh núi. Tiếng là đỉnh núi nhưng đây như một hoa viên đất bằng, có lối đi với cây cảnh bình dân chạy quanh nhà vọng nguyệt. Cảnh thiếu săn sóc trông rời rạc luộm thuộm, thua cả cây trang trí dọc đại lộ. Dục Thúy sơn nổi tiếng là do được nhiều danh nhân đặt chân đến và đã để lại trên vách đá cả trăm bài thơ vịnh cảnh rải rác từ chân núi lên đỉnh, trong các ngóc ngách vách núi phía Nam có nhiều bài thơ khắc nét rõ nét mờ.


                                                                         Lô cốt trên đỉnh núi




Len theo khe đá vào những chỗ hóc hẻm còn có cả những bài thơ chữ Việt, nét chữ nguyệch ngoạc, thiếu đứng đắn bên cạnh những dòng kỷ niệm nham nhở lứa đôi. Tệ hại nhất trong những nơi kín đáo lại là nhà vệ sinh, không ai có can đảm đi tiếp. Tài liệu cho biết có hàng trăm bài thơ trên núi do các danh sĩ trước tác, song cố lắm tôi cũng chỉ chụp được một hai chục bài. Có nhiều bài khắc trên vách núi cheo leo không sao có chỗ đứng để chụp. Một bài thơ khá rõ ràng nằm trong khung hoa văn, chắc là bài của vua Lê Thánh Tông.

Ra mé sườn núi phía Bắc nhìn xuống, thây thấp thoáng thuyền bè trên sông Đáy, phía Nam cũng chỉ thấy một phần thành phố Ninh Bình. Nếu được dọn dẹp cho thông thoáng chung quanh thì từ trên đỉnh Dục Thúy có thể bao quát toàn cảnh đẹp của Ninh Bình và thuyền ghe trên sông Đáy giữa hai cây cầu Ninh Bình và cầu Non Nước.

Xuống chân núi tôi hỏi thăm ai là người trông coi ở đây, em giữ xe chỉ ông già ngồi ở quán nước. Thoạt trông, ông có vẻ lanh lợi và có nhiều nét sắc sảo của lão tướng. Lúc nghe tôi hỏi thăm về những bài thơ trên núi, mắt ông sáng lên mời tôi ngồi rồi nói về núi Dục Thúy, ông đi từ ngày “cách mạng” tháng Tám, người đầu tiên cắm cờ trên núi là người (dựa hơi danh lam) có tượng trên đỉnh. Ông đọc nguyên bản một số thơ của Trương hán Siêu, Lê Thánh Tông, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi. Tôi vừa nghe, hỏi, đồng thời ghi vào máy. Đến một lúc quá nhiều, không thể nào ghi âm nổi, trí nhớ ông già thật tuyệt hảo. Tóc bạc gần hết mà trí nhớ còn tinh tường như vậy, thật hiếm có. Tôi hỏi ngang, ở đây có bán tài liệu như bác vừa trình bày. Ông đứng dậy đi qua đền Trương Hán Siêu, mang về cho tôi một tập “Thơ bia núi Thúy” (3) giá chỉ 20,000 đồng ($1USD). Tôi mừng rơn, vầy thì đỡ công biết bao nhiêu. Trời đã chiều. Tôi mời ông ly nước rồi quay về khách sạn nghỉ ngơi, sáng mai đi núi Cánh Diều sau đó vào Thanh Hóa tìm động Từ Thức.

(Tháng 11 – 2013)
(1). Đền THS trang 84 QHQOK tập 16

(2) Sau 75 nhân dân miền Nam gặp nhiều điều, nhiều hình ảnh, nhiều chuyện (trong thi ca, nhạc họa…) mà mù câm, chẳng hiểu mô tê: anh hùng Lê văn Tám, Phan Đình Giót, Nguyễn văn Trỗi. Những nhân vật này thay thế cho Võ Tánh, Nguyễn Hoàng, Phan Thanh Giản, Gia Long… thì hẳn là bậc anh tài kiệt xuất rồi.

(3) Trong sách “Thơ bia Núi Thúy” do Đinh Giáng sưu tầm và biên dịch (sở thông tin Ninh Bình ấn hành năm 2003). Có tất cả 78 bài, 30 bài được khắc trên núi của nhiều tác giả tên tuổi như Lê Thánh Tông - Lê Hiển Tông – Ngô Thì Sĩ – Ngô Thì Nhậm – Trương Hán Siêu – Nguyễn Khuyến…và 48 bài lưu truyền trong dân gian được sưu tầm, xin ghi một số bài tiêu biểu để độc giả thẩm định.
Vua Lê Thánh Tông
Tam chiết lưu biên Dục Thúy sơn,
Cô cao như tước ngọc phong hàn.
Tầm lai phố tự lăng phong thượng,
Lãm tận hoang bi đái mính hoàn.
Xuyên mật khước nghi thiên địa tiểu,
Đăng cao đốn giác thủy vân khoan.
Sơn quan bất cải hồn như tạc,
Hồi thủ anh hùng nhất mộng gian.
Bản dịch Đinh Giáng
Dục Thúy bên sông khúc chẻ ba,
Núi như én ngọc đứng nguy nga.
Chùa xưa tìm thấy qua luồng gió,
Bia cũ xem xong, bóng xế tà
Hang kín ngỡ rằng trời đất hẹp,
Đỉnh cao thấy rõ nước mây xa.
Núi sông phong cảnh hồn như tạc,
Hoài nhớ anh hùng giấc mộng qua.



                                                         Công viên núi Thúy


Bài thơ Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm

Cảnh Hưng canh dần xuân thanh Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ đề. Trưởng nam Ngô Thì Nhậm phụng lĩnh cung sự tam niên tiền tiên thân hạc giá đăng vân, biểu lưu đề việt thập tam niên nhâm dần di tích thạch tiềm đài phong lục trùng khắc hy cung ký hoài tân:
Vũ trụ dĩ lai
Đạo đức văn chương hoàn tạo hóa.
Yên ba phong nguyệt tại giang sơn.
Đại danh thắng cảnh trường như thử.
Phụ tử chí tình thiên địa gian.

Bản dịch Nguyễn Quí Liêm

Vũ trụ đến nay

Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ đề mùa xuân Canh Dần thời Cảnh Hưng.

Trưởng nam Ngô Thì Nhậm nhận lệnh cung đình đi qua đây là năm Nhâm Dần (khi cha đã giá hạc quy tiên 3 năm trước)

Qua 13 năm thấy chữ của cha đề trên núi rêu đã phủ xanh chữ đã mờ, đã khắc mới lại và cảm xúc viết bài thơ sau:

Đạo đức văn chương trả hóa công,
Gió trăng mây khói gửi non sông,
Đại danh thắng cảnh lưu muôn thuở,
Trời đất cha con một tấm lòng
Nguyễn Khuyến
Chơi núi Non Nước
Chom chỏm trên sông đá một hòn.
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn.
Phơ đầu đá tự đầu bàn cổ,
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch
Hòn châu Thái Phó, tảng rêu tròn.
Trải bao trăng gió xuân già giặn.
Trời dẫu trời già núi vẫn non.
Trương Hán Siêu
Dục Thúy sơn khắc thạch
Sơn sắc chính y y
Du nhân hồ bất quy.
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Nhũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phỏng điếu ngư ky
Bản dịch: Nhóm thơ Lê Quí Đôn

Sắc núi vẫn xanh tươi,
Sao người chẳng lại chơi.
Lòng sông bóng tháp đẹp,
Hang đá cảnh chùa vui.
Phù thế từ nay biệt,
Thân nhàn biết trước sai.
Năm hồ trời đất rộng,
Câu cá muốn tìm nơi.
Thơ xưa vịnh núi Dục Thúy: Phần, từ trang 68 đến trang 151, có 48 bài của nhiều tác giả có tên tuổi như Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, vua Thiệu Trị, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Ngô Thế Vinh…có cả Vô Danh, vịnh núi Dục Thúy luân lưu trong nhân gian mà không có trên núi. Xin ghi lại một số bài tiêu biểu.



                                                                Nhà nghinh phong

Nguyễn Trãi (1380-1442)

Hải khẩu hữu danh san,
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thủy thượng,
Tiên cảnh trụy nhân gian.
Tháp ảnh tram thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban.
Bản dịch Nguyễn Quý Liêm
Danh sơn cửa biển liền kề,
Nơi đây năm trước đi về bao pgen.
Trên sông nảy đóa hoa sen,
Cảnh thiên sa xuống giữa miền trần ai.
Tháp kia tram ngọc xánh cài,
Sông kia trắng rọi sáng ngời tấc mây.
Nhớ Trương Thiếu Bảo lên đây,
Bia xanh nét chữ nở đầy hoa rêu.
Lê Quý Đôn

Nhất phong diệt tận cổ kim nhân’
Kim cổ vô cùng vân thủy thân.
Thăng phú bi vân đà cảm khái,
Thần Hoàng thi cú tối tiên tân.
Thái lãng càn khôn bàng bối tạ,
Thuộc xa tram bút tảo thanh trần.
Bản dịch: Xuân Giáng

Núi này duyệt đủ khách xưa nay,
Kim cổ bao người lụy nước mây.
Thăng phủ bia văn hoài cảm mãi,
Thuần Hoàng thi tứ mới mà hay.
Biển xô sóng trắng lên sườn núi,
Gió vượt đồng xuân tới bãi cây.
Vũ trụ thanh bình bầu bạn đủ,
Xe tram bút quét bụi trần bay.



                                                                   Thơ vua Lê Thánh Tông


Vua Thiệu Trị (1807-1847)

Tẫn vi xuyên cốc, mẫu khâu lăng,
Nam quốc phiên bằng hổ cứ,
Bắc môn tỏa thược tráng long hưng.
Không giao quảng đại cung đề thưởng,
Chuẩn nghĩ biên phương tráng thế tăng.
Danh thắng phất sùng tu địa lợi,
Vĩnh ninh cương ngữ bảo minh trừng.
Bản dịch: Nhân Phủ

Khe hang gò đống hiểm muôn trùng,
Núi vút từng mây, nước suốt trong.
Phiên dậu nước nNam nhờ thế cọp,
Khóa then phía Bắc day oai rồng.
Những từ thuở trước nơi đế thưởng,
Ai rõ ngoài biến thế vẫy vùng.
Danh thắng đã dành, thêm địa lợi,
Vững vàng bờ cõi, rạng non sông.

Trần Công Nhung

No comments:

Post a Comment