
Nhìn về Cồn Hến (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Nếu kẽ một trục thẳng đứng từ cầu Bạch Hổ về Thuận An thì cồn Dã Viên nằm đầu trên – cồn Hến ở điểm trung tâm - cồn Tè cuối cùng.
Trong ba cồn, cồn Hến là phần đất được hình thành từ nhiều trăm năm trước do dòng chảy của Hương giang bồi dần. Trước khi đi thăm Cồn Hến, thử xem qua tài liệu xưa nay nói về Cồn Hến ra sao.
Cồn Hến có hình dài theo hướng Đông Tây, gần như chính giữa dòng sông. Khởi nguồn chỉ là bãi đất bồi, qua thời gian, Cồn Hến trở thành cồn, một vùng đất cao, cây cối phát sinh, chim muông kéo về trú ngụ, cá tôm sinh sản. Cũng bởi cồn do bồi lấp mà thành nên về sau có tên là làng Bồi Thành, diện tích 26.4ha.(3)
Lúc vua Gia Long xây dựng kinh thành (1803) theo thuật phong thủy, Cồn Hến là yếu tố Thanh Long (Rồng xanh) - nằm bên trái, trước Kinh thành cùng với cồn Dã Viên là yếu tố Bạch Hổ (cọp trắng), nằm bên phải, tạo thành thế Hữu Bạch Hổ Tả Thanh Long với ý nghĩa đôi Linh vật chầu hai bên tả hữu Hoàng thành.

Dụng cụ cào hến (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Tám xã trong phạm vi nội thành phải di dời.(4) Nhà vua cấp tiền cho dân mua đất hoặc trưng đất lập xã mới.(5) Cồn Hến được chọn là nơi tái định cư dân xã Phú Xuân. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân họ Trần, Lê và Nguyễn được chuyển đến sống chung ở Cồn Hến.
Sau khi có người sinh sống ở Cồn Hến, mọi thứ nơi đây trở nên sôi động hơn. Cư dân đêm đi soi cá ngày cào hến, xúc tôm cua. Đó là cách họ sinh sống trên Cồn Hến lúc bấy giờ. Hiện nay, Cồn Hến có khoảng 700 gia đình, 5,000 dân thuộc phường Vỹ Dạ, thành phố Huế. Người dân nơi đây nói rằng ngày xưa, hến là đặc sản tiến vua vào mỗi dịp lễ, Tết. Đời vua Thiệu Trị, hến được người dân đem bán quanh nội thành và trở thành món ăn nhiều người ưa thích. Một hôm, đầu bếp đã làm dâng vua một món ăn khác lạ. Vua Thiệu Trị nếm thử, khen ngon, hỏi về lai lịch món này, nhà bếp tâu rằng, do dân Cồn Hến làm ra.
Ngạc nhiên về món ăn đặc biệt, vua lệnh cho lính đưa ông ra du ngoạn Cồn Hến. Từ đó, Vua cũng có những ưu tiên đặc biệt cho người dân sinh sống ở đây, đồng thời khuyến khích người dân bắt hến để dùng trong các bữa ăn như là đặc sản của đất kinh thành. Từ đó, hến là món ăn thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày của các bậc vua chúa và quần thần nội cung.

Bến tắm giặt (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Biết việc cào, bắt hến vô cùng cực nhọc, nhà vua đã có chỉ dụ miễn thuế cho nghề cào hến. Đây cũng là một trong những nghề hiếm hoi không phải nạp thuế cho triều đình thời bấy giờ.
Cồn Hến trong dân gian còn có giai thoại: chuyện tình của đôi nam nữ thuộc dòng dõi vua chúa đã khai sinh ra xứ (cồn) tình yêu.(6)

Chùa Pháp Hải (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Xưa kia Cồn Hến không một bóng người, chỉ có cây cối um tùm, muông thú sinh sản. Bỗng một ngày kia, bà chúa Hoàng (người ở xã Diên Đại, huyện Phú Vang) du ngoạn trên sông Hương, khám phá giữa sông một cồn cát tuyệt đẹp, phong cảnh nên thơ, bà liền ghé vào vãn cảnh. Mê cảnh hữu tình bà thường đến cồn dạo chơi. Về sau bà kết hôn với một người họ Nguyễn, thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725-1738) xây dựng phủ chúa ở Phú Xuân. Nhưng do bị ám ảnh bởi vẻ đẹp thơ mộng của xứ thần tiên giữa sông nước, nên hai vợ chồng quyết định đến dựng chòi trên cồn cát này sinh sống.
Không có sách sử nào ghi cuộc sống của hai vợ chồng này cuối đời ra sao, nhưng dân gian truyền rằng, ban đầu họ sống với chim muông, lấy thức ăn từ sông. Họ trồng rau, quả để dùng hàng ngày. Họ sinh con và sống hạnh phúc với nhau đến đầu bạc răng long. Đó là người đầu tiên khai khẩn Cồn Hến.
Theo sử thì có một nhân vật khác khai canh Cồn Hến. Vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725-1738), có ông Huỳnh Tương (xã Diên Đại, Phú Vang) được coi là người đầu tiên đến dựng chòi ở làm nghề cào hến. Qua thời Gia Long (1802-1820), phường Giang Hến, thuộc xã Phú Xuân ra đời trên “xứ cồn cạn.” Tên Cồn Hến bắt đầu từ đó.

Miếu thờ Mẫu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Thăm Cồn Hến không khó, từ trung tâm thành phố Huế theo đường Lê Lợi về Vỹ Dạ qua đập đá là đường Nguyễn Sinh Cung (Thuận An cũ), đến đầu chợ Vỹ Dạ rẽ trái qua cầu Phú Lưu là vô Cồn Hến. Cầu này có trước năm 1975, cầu hẹp chừng 3m, vài cầu, thành cầu bằng sắt, mặt cầu lót ván, nay đã đổ xi măng. Từ cầu chạy thẳng đường xuống là bến đò ngang, đò qua bờ bên kia, khu phố cổ Chi Lăng. Ngày nay, bên kia bờ là một làng thuyền Rồng đậu san sát để phục vụ khách ăn nhậu. Con đường mới mở dọc bờ sông, đường Trịnh Công Sơn, từ cầu Gia Hội về bến đò Cồn, như là một công viên (hoa lá cành), nhưng người dân trưng dụng dọn bàn ghế bán giải khát. Khách sang thì đặt món rồi xuống thuyền Rồng.
Cồn Hến chỉ có con đường lớn độc nhất mang tên nhà thơ tiền chiến Ưng Bình,(7) những đường còn lại đều là Kiệt.

Bến đò (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Mặc dù có diện tích không lớn, nhưng Cồn Hến có nhiều cơ sở tín ngưỡng - tâm linh: đình làng, miếu thờ Mẫu, Âm Linh Tự, chùa Thầy, chùa Cô và nhà thờ Tân Thủy.
Đường Ưng Bình là đường chính chia đôi Cồn Hến theo chiều ngang. Những con đường nhỏ khác: dọc, ngang nối với trục đường chính qua các xóm gọi là kiệt (ngõ) mang số thứ tự: kiệt 1, kiệt 2 …
Đầu đường Ưng Bình có kiệt 12, rẽ vào chùa Pháp Hải. Đối với một địa phương 700 dân, chùa Pháp Hải là khá lớn. Chùa mái hai tầng, lợp ngói liệt. Chánh điện ba gian cửa gỗ bàn khoa. Chùa đang xây thêm tòa nhà 2 tầng bên cánh phải, theo mô hình dựng trước thềm chùa, có lẽ đây là trường học hoặc nơi vãng lai, tạm trú cho Tăng Ni hoặc bá tánh nơi xa về thăm chùa. Chùa Pháp Hải còn có tên “chùa Thầy” gọi theo kiểu dân gian, chùa dành cho chư Tăng.
Trước cổng có hồ rộng bằng mặt tiền của chùa nhưng khô nước. Bên kia hồ có vườn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm đang chỉnh trang. Tượng Bồ Tát cao trên 3m dựng trên tòa sen và đế xây lục giác cao trên 2m. Chân đế có câu chữ Hán:
“Khổ hải thường tác độ nhân chu”
(Bể khổ thường tạo ra chiếc thuyền để cứu giúp người)
Chùa trước kia gọi là Diệu Minh, do ngài Trí Uyên, tự là Đạo Nguyên lập ra năm 1932. Thầy Trí Uyên là đệ tử chùa Trà Am.(8) Năm 1964 thầy Đức Tâm cùng với Phật tử Bồi Thành đã tôn tạo và đổi tên thành chùa Pháp Hải. Thầy Đức Tâm cùng với đệ tử của ngài Trí Thủ, thuộc dòng thiền Liễu Quán đời thứ 10. Thầy là một trong những vị sáng lập Gia Đình Phật tử Hóa Phổ, và là thư ký của nguyệt san Liên Hoa. Năm 1954 thầy là trụ trì chùa Diệu Đế. Thầy được Bổn sư trao kệ đắc pháp năm 1973. Thầy viên tịch năm 1988.
Đường Ưng Bình xuống bến đò có ba miếu lớn nhỏ liên tiếp, không rõ thờ ai. Tôi hỏi bà già bán hàng bên đường, bà đưa tay chỉ: “cấy nớ Đình Làng, cấy ni Miếu thờ Mẫu, cấy tê Âm Linh Tự.” Đơn giản thế thôi, bà còn lo cho mấy cậu học trò trường Phú Lưu đang bu quanh.

Cầu chợ Dinh nhìn lên Cồn Hến (như quả tim). (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Đình làng có hai cổng, cổng ngoài bỏ ngõ, trong sân trồng nhiều cây soan (sầu đông), cổng trong xây trụ cao có xà ngang đắp mái giả, có lưỡng long tranh châu. Hai trụ cổng có hai câu đối chữ Hán. Trong cổng là bình phong nhỏ hoa văn sơ sài. Sân trong của đình để trống, bên góc trái có cây sanh lâu năm rủ bóng. Đình một gian hai chái, cửa bàn khoa khóa kín, vắng người. Trái với cổng, nội ngoại thất của đình, trang trí rất đơn sơ. Bên trong đình, khám thờ đều xây bệ, gian giữa, phía trước bệ cao, có bát nhang, chân đèn, bình hoa, chén nước, tương đối đầy đủ trang nghiêm. Sát vách trong, cũng 3 bệ thờ, bệ gian giữa cao hơn bệ ở hai chái, nhưng đồ tế tự thì khiêm nhường hơn. Vẻ lạnh lẽo của quang cảnh chung, cho thấy đã lâu lắm đình không có lễ lạc gì và cũng không ai thăm chừng hương khói, khác với chùa.
Cạnh đình là miếu thờ Mẫu, cảnh còn hoang vắng hơn. Ngoài ngôi miếu chính còn 3 am nhỏ trước sân, không hương khói, dấu bụi thời gian phủ gần nửa chân tường. Chẳng bù với lối thờ Mẫu xứ Bắc, nơi đâu cũng sáng sủa trang trọng.
Kế bên là Âm Linh Tự, cũng nằm trong khuôn viên riêng có tường xây, đơn giản và nhỏ hơn. Miếu xây có mái tuy nhiên bệ thờ sơ sài và bốn bên vách trống.
Xuống bến đò, không thấy ai đợi đò qua sông, chỉ có hai cô nữ sinh áo trắng đứng ngắm cảnh, tôi nhờ làm mẫu bấm tấm hình. Hỏi ra, bến nay chỉ để giặt rửa, “năm thì mười họa” mới có người thuê đò sang ngang, hoặc ghe thuyền Quảng Trị vô bán hến. Dọc bờ sông, nhà nào cũng che một túp lều làm nhà kho chứa đồ linh tinh, tệ hại nhất là rác rến bừa bãi đổ từ trên bờ xuống sông, rất mất vệ sinh. Nghĩ thật phí, trước mặt nhà nào cũng có lũy tre, có bến sông, tại sao không dựng một nhà sàn cạnh bến để hưởng gió mát, ngắm trăng thanh, nhất là những ngày hè oi bức! Đến cuối đường, có hai cô giặt đồ dưới bến, xa xa hai người đang xúc hến, cảnh thanh nhàn và đẹp dân dã. Một người đàn ông vác cần câu đi tới, thấy tôi mang máy ảnh là “ca” ngay bài “sao mà khổ”. “Khổ quá chú ơi, không có chi làm, câu bậy vài con cá nấu canh, chớ có sướng chi mô”.
.jpg)
Chùa Ni Hương Lưu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Vừa lúc một bà già trong nhà bước ra, anh câu lại tiếp, “Chú chụp cho mệ nớ tấm hình, mệ khổ lắm đọ.” Tôi hỏi chuyện bà già, bà thổ lộ một hơi, “Một mình tui ở cái nhà rứa đọ chớ mà khổ lắm chú ơi. Một mẹ nuôi 9 đứa con, chừ 9 con không đứa mô nuôi mẹ. Răng mà khổ ri chú hè”!
Tôi kiếm lời an ủi bà cụ, “Chừ có ai sướng mô mệ, ngoài quan quyền, đại gia thì ai cũng khổ, mà khổ nhiều thứ lắm, mệ ri là cũng may rồi. Mệ khôông nghe người kêu mất nhà, kẻ kêu mất đất đó na.” Về những vùng dân quê nghèo nàn, ai gặp tôi cũng muốn thở than gởi gắm đôi điều (tưởng tôi là nhà báo).
Tôi tìm cách rút lui nhanh, không thì đổ nợ vì chuyện kể khổ với giãi bày, mà chẳng ăn giải gì. Tôi chạy ngược về xóm trên tìm nhà thờ Tân Thủy và chùa Ni Hương Lưu.
Một người đàn ông đang đút cơm cho con bên đường, dưới bóng tre xanh, tôi dừng xe hỏi chuyện:
- Nghe nói Cồn Hến sẽ giải tỏa làm khu du lịch, anh biết không?
- Cấy nớ nói đã lâu mà sáu, bảy năm ni chộ chi mô. Nhưng bà con cũng khôông dám xây cất chi lớn, sợ thình lình phải đi thì mất của.
- Nghề cào Hến bựa ni cũng còn tiếp anh hỉ?
- Dạ mà ít lắm người ta mua hến Quảng Trị chở vô, vì cào hến chỗ ni chừ hao công lỗ tiền dầu không có ăn. Hến Quảng Trị chở đò vô chỗ cầu Phú Lưu hoặc cập vô chỗ bến đò rồi nhà lò tới mua, một bao 200 ngàn.
- Nghe nói Cồn Hến còn có nhà thờ Tân Thủy và chùa Ni chỗ mô anh chỉ giùm?
- Chú chạy đường ni lên tuốt đầu trên làng Trung Giang, có nhà thờ Đạo, gần đó có chùa Ni Hương Lưu.
Nhà thờ Tân Thủy nằm đầu kiệt 47, gần mút Cồn Hến, nhìn ra sông hương. Giáo xứ Tân Thủy thuộc Tổng giáo phận Huế, thành lập từ năm 1896 và được xây năm 2002. Giáo dân Cồn Hến có khoảng hơn 300. Giáo đường đóng cửa, trẻ nhỏ chơi đùa thoải mái trước thềm. Nhìn vách tường bên ngoài, nhà thờ rêu phong cũ kỹ, tưởng chừng lâu lắm chưa được sơn sửa.
Nhà thờ Tân Thủy (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Chỉ mấy bước qua Niệm Phật Đường Hương Lưu. Chùa cũng vắng hoe, cửa đóng then cài. Cổng tam quan vào chùa bốn trụ xây, cửa sắt, cổng không mái như những tam quan thường thấy. Bốn trụ tô điểm đơn giản, có hai câu đối chữ quốc ngữ, viết kiểu chữ triện tròn, rất khó đọc. Chùa có vẻ mới mẻ hoàn toàn, nhất là đài Quan Âm Bồ Tát khá lớn trong nhà lục giác cột đắp long giáng màu xanh, nổi rõ trên nền đen.
Trở lại nghề cào hến, theo tin báo, một trong những nguyên nhân làm cho nghề Hến ở địa phương mai một dần là do nạn khai thác cát trái phép bừa bãi dưới đáy sông. Sà lan, đò máy dùng bơm rút cát, đục, khoét đáy sông khiến lòng sông bị thương nặng, loang lổ hàng trăm hố trũng chỗ lõm, chỗ lồi. Trung bình mỗi ngày ước tính có khi một sà lan tận thu hơn 400m3 cát, làm ảnh hưởng đến lòng sông, ... khiến cho hến và nhiều loài thủy sản hao dần cạn kiệt. Dân Cồn Hến mấy trăm năm sinh sống nhờ cào hến để bán hoặc chế các món ăn. Nay hến không còn, chuyển qua nghề gì cũng khó. Lớp trẻ nhờ học hành bươn bả ra ngoài làm ăn, người lớn tuổi có thứ gì khác trên cồn Hến nhỏ bé này. Vì vậy các lò phải mua Hến các nơi khác.
Muốn có hến để bán hoặc làm cơm hến, trước tiên ngâm hến trong nước gạo một thời gian để thải hết bùn đất, rửa sạch, đem luộc cho đến khi hến hả miệng. Giữ nước luộc sau khi đã lắng cặn, đổ hến ra sàng để lấy thịt hến. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra còn gia vị và nhiều thứ đi kèm.
Thành phần một tô cơm hến: cơm trắng để nguội, khế chua, rau thơm, bạc hà (dọc mùng), bắp chuối thái chỉ, nước mắm, hồ tiêu, hành phi, muối mè, tương ớt, tóp mỡ, da heo chiên phồng, mắm ruốc, đậu phụng chiên dầu nguyên hạt, ớt bột tao dầu. Tất cả đều để nguội, riêng nước hến phải được giữ cho nóng sôi. Bát cơm hến được trộn từ tất cả các thành phần trên rồi chan nước hến. Cơm hến thường được ăn với ớt thật cay mới đúng điệu; còn đối với bún hến thì có lẽ sẽ ngon hơn nếu ăn khô (không chan nước khi ăn).
Cơm hến (gánh) (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Mỗi thứ một chút nhưng khi pha trộn vào nhau lại tạo ra hương vị đặc biệt thơm ngon béo bùi... khó tả. Có thể nói cơm hến là món ăn cay nhất trong ẩm thực Huế. Ăn vừa hít hà, cay toát mồ hôi chảy nước mắt. Với người Huế như vậy mới đã, mới thấm. Người không sành, không thấy ngon còn cho là "ăn chi mà khổ rứa."
Món ăn bình dị của người dân lao động như thế lại trở thành món đặc sản chính thống của xứ “Cồn Cạn” nhỏ bé nằm giữa dòng Hương giang hiền hòa. Người ở xa nghe gọi “cơm hến Huế,” nói thế chưa đúng hẳn, phải nói cơm hến bên Cồn, cơm hến cồn Hến mới “chính danh.” Một bạn sành điệu của xứ kinh kỳ khẳng định “Cơm hến Huế mà ăn tại Bao Vinh, An Cựu hay ngay cả trong Thành Nội thì cũng chẳng khác gì xem những tác phẩm nghệ thuật của bậc thầy bị sao chép lại.” Ái chà, tinh tế đến vậy sao!
Công bằng mà xét, đúng là để có một bát cơm hến “chính thống” quả là cầu kỳ nhiêu khê, quá nhiều thành phần, nhiều yếu tố, nếu không chuyên nghiệp thì khó mà “pha chế” thành. Tôi nghĩ, không chỉ đôi bàn tay chuyên nghiệp, còn phải có tấm lòng say mê công việc của mình, dù “tác phẩm” chỉ là bát cơm hến mà trong chốc lát, thực khách sẽ mang đi xa.
Cơm hến ăn hoài không chán cũng nhờ hương vị riêng biệt như đã nói, người dân lao động Huế xưa và cả bậc vua chúa, đều cho món cơm hến đã ngon miệng lại còn là món ăn dinh dưỡng thiết thực nữa. Có hai món cơm hến: khô và nước để tùy thực khách chọn. Cơm hến nước là chan luôn nước luộc hến vào cơm hến, cơm hến khô là nước hến để riêng, ăn cơm hến xong mới húp, hoặc húp nước hến trong khi ăn, như cách ăn hủ tiếu khô. Có thể nói, người dân Huế rất biết đổi món, đổi khẩu vị liên tục để tạo ra sự mới lạ khiến thực khách ăn hoài không chán.
Chè bắp (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Ăn cơm hến bên Cồn ngon hơn nơi nào hết cũng còn do yếu tố ngoại cảnh. Chiều mùa hạ ngồi quán bên sông, vừa thưởng thức món đặc sản, vừa ngắm dòng sông nước lững lờ. Rồi như văng vẳng có ai ngâm thơ Hàn Mặc Tử:
Tôi tìm cách rút lui nhanh, không thì đổ nợ vì chuyện kể khổ với giãi bày, mà chẳng ăn giải gì. Tôi chạy ngược về xóm trên tìm nhà thờ Tân Thủy và chùa Ni Hương Lưu.
Một người đàn ông đang đút cơm cho con bên đường, dưới bóng tre xanh, tôi dừng xe hỏi chuyện:
- Nghe nói Cồn Hến sẽ giải tỏa làm khu du lịch, anh biết không?
- Cấy nớ nói đã lâu mà sáu, bảy năm ni chộ chi mô. Nhưng bà con cũng khôông dám xây cất chi lớn, sợ thình lình phải đi thì mất của.
- Nghề cào Hến bựa ni cũng còn tiếp anh hỉ?
- Dạ mà ít lắm người ta mua hến Quảng Trị chở vô, vì cào hến chỗ ni chừ hao công lỗ tiền dầu không có ăn. Hến Quảng Trị chở đò vô chỗ cầu Phú Lưu hoặc cập vô chỗ bến đò rồi nhà lò tới mua, một bao 200 ngàn.
- Nghe nói Cồn Hến còn có nhà thờ Tân Thủy và chùa Ni chỗ mô anh chỉ giùm?
- Chú chạy đường ni lên tuốt đầu trên làng Trung Giang, có nhà thờ Đạo, gần đó có chùa Ni Hương Lưu.
Nhà thờ Tân Thủy nằm đầu kiệt 47, gần mút Cồn Hến, nhìn ra sông hương. Giáo xứ Tân Thủy thuộc Tổng giáo phận Huế, thành lập từ năm 1896 và được xây năm 2002. Giáo dân Cồn Hến có khoảng hơn 300. Giáo đường đóng cửa, trẻ nhỏ chơi đùa thoải mái trước thềm. Nhìn vách tường bên ngoài, nhà thờ rêu phong cũ kỹ, tưởng chừng lâu lắm chưa được sơn sửa.

Chỉ mấy bước qua Niệm Phật Đường Hương Lưu. Chùa cũng vắng hoe, cửa đóng then cài. Cổng tam quan vào chùa bốn trụ xây, cửa sắt, cổng không mái như những tam quan thường thấy. Bốn trụ tô điểm đơn giản, có hai câu đối chữ quốc ngữ, viết kiểu chữ triện tròn, rất khó đọc. Chùa có vẻ mới mẻ hoàn toàn, nhất là đài Quan Âm Bồ Tát khá lớn trong nhà lục giác cột đắp long giáng màu xanh, nổi rõ trên nền đen.
Trở lại nghề cào hến, theo tin báo, một trong những nguyên nhân làm cho nghề Hến ở địa phương mai một dần là do nạn khai thác cát trái phép bừa bãi dưới đáy sông. Sà lan, đò máy dùng bơm rút cát, đục, khoét đáy sông khiến lòng sông bị thương nặng, loang lổ hàng trăm hố trũng chỗ lõm, chỗ lồi. Trung bình mỗi ngày ước tính có khi một sà lan tận thu hơn 400m3 cát, làm ảnh hưởng đến lòng sông, ... khiến cho hến và nhiều loài thủy sản hao dần cạn kiệt. Dân Cồn Hến mấy trăm năm sinh sống nhờ cào hến để bán hoặc chế các món ăn. Nay hến không còn, chuyển qua nghề gì cũng khó. Lớp trẻ nhờ học hành bươn bả ra ngoài làm ăn, người lớn tuổi có thứ gì khác trên cồn Hến nhỏ bé này. Vì vậy các lò phải mua Hến các nơi khác.
Muốn có hến để bán hoặc làm cơm hến, trước tiên ngâm hến trong nước gạo một thời gian để thải hết bùn đất, rửa sạch, đem luộc cho đến khi hến hả miệng. Giữ nước luộc sau khi đã lắng cặn, đổ hến ra sàng để lấy thịt hến. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra còn gia vị và nhiều thứ đi kèm.
Thành phần một tô cơm hến: cơm trắng để nguội, khế chua, rau thơm, bạc hà (dọc mùng), bắp chuối thái chỉ, nước mắm, hồ tiêu, hành phi, muối mè, tương ớt, tóp mỡ, da heo chiên phồng, mắm ruốc, đậu phụng chiên dầu nguyên hạt, ớt bột tao dầu. Tất cả đều để nguội, riêng nước hến phải được giữ cho nóng sôi. Bát cơm hến được trộn từ tất cả các thành phần trên rồi chan nước hến. Cơm hến thường được ăn với ớt thật cay mới đúng điệu; còn đối với bún hến thì có lẽ sẽ ngon hơn nếu ăn khô (không chan nước khi ăn).

Mỗi thứ một chút nhưng khi pha trộn vào nhau lại tạo ra hương vị đặc biệt thơm ngon béo bùi... khó tả. Có thể nói cơm hến là món ăn cay nhất trong ẩm thực Huế. Ăn vừa hít hà, cay toát mồ hôi chảy nước mắt. Với người Huế như vậy mới đã, mới thấm. Người không sành, không thấy ngon còn cho là "ăn chi mà khổ rứa."
Món ăn bình dị của người dân lao động như thế lại trở thành món đặc sản chính thống của xứ “Cồn Cạn” nhỏ bé nằm giữa dòng Hương giang hiền hòa. Người ở xa nghe gọi “cơm hến Huế,” nói thế chưa đúng hẳn, phải nói cơm hến bên Cồn, cơm hến cồn Hến mới “chính danh.” Một bạn sành điệu của xứ kinh kỳ khẳng định “Cơm hến Huế mà ăn tại Bao Vinh, An Cựu hay ngay cả trong Thành Nội thì cũng chẳng khác gì xem những tác phẩm nghệ thuật của bậc thầy bị sao chép lại.” Ái chà, tinh tế đến vậy sao!
Công bằng mà xét, đúng là để có một bát cơm hến “chính thống” quả là cầu kỳ nhiêu khê, quá nhiều thành phần, nhiều yếu tố, nếu không chuyên nghiệp thì khó mà “pha chế” thành. Tôi nghĩ, không chỉ đôi bàn tay chuyên nghiệp, còn phải có tấm lòng say mê công việc của mình, dù “tác phẩm” chỉ là bát cơm hến mà trong chốc lát, thực khách sẽ mang đi xa.
Cơm hến ăn hoài không chán cũng nhờ hương vị riêng biệt như đã nói, người dân lao động Huế xưa và cả bậc vua chúa, đều cho món cơm hến đã ngon miệng lại còn là món ăn dinh dưỡng thiết thực nữa. Có hai món cơm hến: khô và nước để tùy thực khách chọn. Cơm hến nước là chan luôn nước luộc hến vào cơm hến, cơm hến khô là nước hến để riêng, ăn cơm hến xong mới húp, hoặc húp nước hến trong khi ăn, như cách ăn hủ tiếu khô. Có thể nói, người dân Huế rất biết đổi món, đổi khẩu vị liên tục để tạo ra sự mới lạ khiến thực khách ăn hoài không chán.

Ăn cơm hến bên Cồn ngon hơn nơi nào hết cũng còn do yếu tố ngoại cảnh. Chiều mùa hạ ngồi quán bên sông, vừa thưởng thức món đặc sản, vừa ngắm dòng sông nước lững lờ. Rồi như văng vẳng có ai ngâm thơ Hàn Mặc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(thơ Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vỹ Dạ)
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(thơ Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vỹ Dạ)
Rõ là thú vị hơn ngồi trong quán nóng bức, ồn ào, người vào kẻ ra.
Những ai không có thì giờ qua Cồn Hến hay đến quán thì đã có mấy o gánh hến đi khắp các ngả đường cất tiếng rao "hến khô... ông," hình ảnh, âm điệu quen thuộc mà người Huế đi xa không thể nào quên, tương tự tiếng “mì gõ” của người Sài Gòn vậy.
Nhưng Cồn Hến không chỉ có cơm Hến mới là món đặc sản, chè bắp “bên cồn” cũng là món ngon nơi khác khó bì. Chè bắp nổi tiếng ở Cồn Hến cũng do chỗ bắp trồng tại cồn. Đất cồn là đất phù sa qua hàng trăm năm, đất màu mỡ rất tốt cho bắp. Bắp cồn không những trái lớn hột đều mà còn dẻo, thơm. Hoa bắp cồn Hến Vỹ Dạ cũng thi vị không kém:
Những ai không có thì giờ qua Cồn Hến hay đến quán thì đã có mấy o gánh hến đi khắp các ngả đường cất tiếng rao "hến khô... ông," hình ảnh, âm điệu quen thuộc mà người Huế đi xa không thể nào quên, tương tự tiếng “mì gõ” của người Sài Gòn vậy.
Nhưng Cồn Hến không chỉ có cơm Hến mới là món đặc sản, chè bắp “bên cồn” cũng là món ngon nơi khác khó bì. Chè bắp nổi tiếng ở Cồn Hến cũng do chỗ bắp trồng tại cồn. Đất cồn là đất phù sa qua hàng trăm năm, đất màu mỡ rất tốt cho bắp. Bắp cồn không những trái lớn hột đều mà còn dẻo, thơm. Hoa bắp cồn Hến Vỹ Dạ cũng thi vị không kém:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
(thơ Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vỹ Dạ)
Quán cơm hến (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
(thơ Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vỹ Dạ)

Chè bắp phải là bắp trồng ngay ở bãi phù sa quanh cồn. Lấy bắp non về nạo thành bột mịn, nấu với đường. Múc chè ra bát, cho thêm vào vài muỗng nước cốt dừa trắng như sữa, thơm lừng. Chè nấu đã ngọt sẵn, khi ăn có thể bỏ thêm đá bào. Trước đây, chè thường múc ra bát nhỏ nhưng bây giờ đã thay bằng loại ly lớn. Bưng ly chè trên tay, nhìn sắc màu vàng mơ tươi sáng của hạt bắp cồn, vị thơm ngọt của bắp, vị béo của nước cốt dừa hòa quyện với nhau, là đã thấy hấp dẫn, ăn mấy cũng không chán.
Ở Huế, chè bắp có bán nhiều nơi nhưng ngon nhất vẫn là tại cồn Hến. Cồn Hến bốn mùa cây trái tốt tươi, được nuôi dưỡng bằng phù sa đất mẹ nên hến hay bắp cũng đều đặc biệt hơn nơi khác. Người dân Cồn trồng bắp gần như quanh năm (trừ ba tháng lũ lụt).
Nấu chè bắp là bí quyết riêng của người cồn Hến, nơi khác nấu không thể sánh được. Chính vì vậy, ai đã từng một lần thưởng thức món chè bắp Cồn Hến thì nhớ mãi không quên.
Ngoài hai món đặc sản độc đáo: cơm hến và chè bắp, người dân Cồn còn các món quen thuộc của Huế như: bánh bèo, nậm, lọc... Nói chung là “nghề” người dân Cồn Hến rất khiêm nhường, ít vốn, bằng tất cả tấm lòng phục vụ khách, chỉ để sống qua ngày.
Quán vắng khách. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
“Đặc sản quê hương” là thứ thuộc về “quốc hồn quốc túy,” đương nhiên phải được trân trọng giữ gìn. Thế nên qua “văn thơ” các món ăn đặc biệt như cơm hến xứ Cồn được bao nhiêu người tán thưởng. Tuy nhiên với tôi, xem cho biết, viết cho vui chứ thực tế là “kính nhi viễn chi.”
Điều rõ ràng là VN ngày nay, từ con người đến con vật... hoa lá cỏ cây đều bị nhiễm độc. Cứ xem TVT/chuyển động 24, cứ vào bệnh viện... sẽ thấy nỗi bất hạnh của đất nước như thế nào. Công nhân ăn trưa xong là lăn ra bất tỉnh, trẻ mẫu giáo ăn xong đưa đi bệnh viện cấp cứu, công trình xây dựng đang dang dở thì, cầu sập, cần cẩu đổ chết người. Một sáng đẹp trời, bỗng dưng cá chết trắng sông.... Một đất nước mục rã như con bệnh trầm kha.
Nhưng chẳng hề gì, mọi người cứ mua bán, cứ ăn chơi, cứ “ôi biết mấy tự hào”! Không tự hào sao được! Ai có tượng “Mẹ anh hùng,” ai có “Lê Văn Tám,” ai có “Hà Nội nghìn năm thăng Long,” v.v.. Không gì cũng cứ tự hào cho (tự) sướng. Một “quan chức” đã trả lời khi được hỏi “đốt pháo bông tốn bạc tỉ, sao không dành tiền giúp nhà nghèo”?
“Nhà nghèo cũng cần xem pháo bông để thư giãn chứ” (!!!). Mà có thế thật, mải ngắm pháo bông cũng quên đói chốc lát, như một xứ ở châu Phi không có gì ăn hút thuốc phiện cho quên đói.
Ở Huế, chè bắp có bán nhiều nơi nhưng ngon nhất vẫn là tại cồn Hến. Cồn Hến bốn mùa cây trái tốt tươi, được nuôi dưỡng bằng phù sa đất mẹ nên hến hay bắp cũng đều đặc biệt hơn nơi khác. Người dân Cồn trồng bắp gần như quanh năm (trừ ba tháng lũ lụt).
Nấu chè bắp là bí quyết riêng của người cồn Hến, nơi khác nấu không thể sánh được. Chính vì vậy, ai đã từng một lần thưởng thức món chè bắp Cồn Hến thì nhớ mãi không quên.
Ngoài hai món đặc sản độc đáo: cơm hến và chè bắp, người dân Cồn còn các món quen thuộc của Huế như: bánh bèo, nậm, lọc... Nói chung là “nghề” người dân Cồn Hến rất khiêm nhường, ít vốn, bằng tất cả tấm lòng phục vụ khách, chỉ để sống qua ngày.

“Đặc sản quê hương” là thứ thuộc về “quốc hồn quốc túy,” đương nhiên phải được trân trọng giữ gìn. Thế nên qua “văn thơ” các món ăn đặc biệt như cơm hến xứ Cồn được bao nhiêu người tán thưởng. Tuy nhiên với tôi, xem cho biết, viết cho vui chứ thực tế là “kính nhi viễn chi.”
Điều rõ ràng là VN ngày nay, từ con người đến con vật... hoa lá cỏ cây đều bị nhiễm độc. Cứ xem TVT/chuyển động 24, cứ vào bệnh viện... sẽ thấy nỗi bất hạnh của đất nước như thế nào. Công nhân ăn trưa xong là lăn ra bất tỉnh, trẻ mẫu giáo ăn xong đưa đi bệnh viện cấp cứu, công trình xây dựng đang dang dở thì, cầu sập, cần cẩu đổ chết người. Một sáng đẹp trời, bỗng dưng cá chết trắng sông.... Một đất nước mục rã như con bệnh trầm kha.
Nhưng chẳng hề gì, mọi người cứ mua bán, cứ ăn chơi, cứ “ôi biết mấy tự hào”! Không tự hào sao được! Ai có tượng “Mẹ anh hùng,” ai có “Lê Văn Tám,” ai có “Hà Nội nghìn năm thăng Long,” v.v.. Không gì cũng cứ tự hào cho (tự) sướng. Một “quan chức” đã trả lời khi được hỏi “đốt pháo bông tốn bạc tỉ, sao không dành tiền giúp nhà nghèo”?
“Nhà nghèo cũng cần xem pháo bông để thư giãn chứ” (!!!). Mà có thế thật, mải ngắm pháo bông cũng quên đói chốc lát, như một xứ ở châu Phi không có gì ăn hút thuốc phiện cho quên đói.
TRẦN CÔNG NHUNG
No comments:
Post a Comment