Monday, August 31, 2015

Đền thờ Đào Duy Từ

Qua tiểu sử, ta thấy ngay Đào Duy Từ bất mãn với chế độ Đàng Ngoài và mong mỏi phụng sự Nam Hà, do đó tác phẩm của ông bao hàm tư tưởng của một người quyết đem tài mình bồi đắp giang sơn Miền Nam.
Qua thơ văn, Đào Duy Từ đã bộc lộ tâm sự mình và nói lên quyết tâm của người Nho sĩ dốc lòng phục vụ chế độ mình đã chọn.
Năm 1634, ông qua đời, để lại các tác phẩm:
- Hổ tướng xu cơ tập (luận về binh pháp)
- Ngọa Long Cương
- Tư Dung Vãn
Hai tác phẩm quan trọng của Đào Duy Từ: Ngọa Long Cương và Tư Dung Vãn đều viết theo thể lục bát trường thiên. Ngọa Long Cương dài 136 câu đi luôn một mạch, Tư Dung Vãn, dài 336 câu, có xen lẫn những bài ca, những khúc ngâm, hoặc thơ Đường Luật, tùy theo dòng tư tưởng khi phóng khoáng, lúc nghiêm trang...
Nhìn chung Ngọa Long Cương xuất hiện lúc tác giả còn trong thời ẩn dật nuôi chí lớn. Tư Dung Vãn được sáng tác lúc danh ước đã đạt nên phản chiếu tình hình xã hội Nam Hà cũng như có rất nhiều câu ca tụng các Chúa Nguyễn.Ông biết giữ khí tiết ẩn nhẫn, và xuất hiện đúng thời như Khổng Minh thuở trước:
“Nhân tài tuy khắp nơi dùng
Đua trên đường lợi, áng công vội giành
Nào ai lấy đạo giữ mình
Kẻ đua tới Ngụy người giành về Ngô
Nam Dương có sĩ ẩn nho.
Khổng Minh là chữ, trượng phu khác loài.”
(Ngọa Long Cương Ngâm)
Đình Lạc Giao (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Trong thời gian chưa được thi thố tài năng, ông vui thú cảnh thiên nhiên, ca phong, vịnh nguyệt hay vui với công việc đồng áng nông gia:
“Khúc cầm cổ cẩm cung xoang
Ca ngâm Lương Phủ đạo càng hứng mau.
Của kho vô tận xiết đâu
Thú vui thuở thế ai dầu mặc ai
Thanh nhàn, dưỡng tánh hôm mai
Ghềnh trong cuốc nguyệt, bãi ngoài cày mây”
(Ngọa Long Cương Ngâm)
Khi đã có chốn nương thân vững chắc Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua giúp nước nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm "Ngọa Long Cương" của mình gồm 136 câu lục bát, cho Trần Đức Hòa xem. Nội dung bài thơ chính là nỗi lòng của Đào Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng.(1) Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện rõ ở đoạn kết:
Chốn này thiên hạ đã dùng
Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên
Án thờ trong Thái miếu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)



Khám Lý Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài ''Ngọa Long Cương'' của con rể, thấy văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn lao, đã tấm tắc khen. Tương truyền, khi làm thầy dạy học ở nhà quan Khám Lý Trần Đức Hòa, Đào Duy Từ thường ngâm bài thơ này. Chính nhờ bài thơ chất chứa tâm huyết này mà ông đã được đến với chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sử chép lại rằng, trước lúc tiến cử ông, Trần Đức Hòa đã đem dâng bài thơ lên chúa. Chúa xem thấy lạ, lập tức cho mời Đào Duy Từ.
Bài Tư Dung Vãn gồm 336 câu thơ lục bát xen kẽ bảy bài thơ thể ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt cũng là một áng văn hay, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên nơi cửa biển Tư Dung(2) và cảnh sống thanh bình của vùng đất Phương Nam, nơi có chúa hiền tài giỏi. Ngoài ra tương truyền rằng vở tuồng Sơn Hậu cũng như các điệu múa Hoa Đăng, Nữ tướng xuất quân, cũng đều do Đào Duy Từ sáng tác.
Bấy giờ chúa Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài vãn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám Lý Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp Chúa.
Thái miếu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề, nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng, vì chưa có chức tước!
Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên Chúa mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy. Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của Chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ:
- Người kia là ai vậy, thưa cha?
Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời:
- Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!
Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại chứ không đi nữa. Khám Lý Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ quá, liền níu lại quở trách:
- Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha cả thôi!
Duy Từ đáp:
- Thưa cha, vì con thấy Chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mỹ nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vào tội khinh vua.
Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy chào Chúa, không được để Chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không chịu nghe lời.
Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, được ra mắt Chúa, hòng tiến thân kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi mời vào sảnh đường tiếp kiến.
Cổng đình (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh Chúa để bàn bạc việc quốc gia đại sự. Ông được phong chức Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.
Chỉ có tám năm đến với chúa Nguyễn, một khoảng thời gian không dài mà sự nghiệp Đào Duy Từ được các vua Nguyễn sau này xếp vào hàng đệ nhất khai quốc công thần. Thế mới biết tài năng khi được phát hiện và trọng dụng thì có ích biết dường nào.(3) Tất nhiên sự nghiệp rực rỡ của Đào Duy Từ không thể tách rời sự anh minh sáng suốt dụng người của chúa Sãi Vương, mặt khác, thành công của Chúa trong việc biến các ý tưởng của cha thành hiện thực có phần đóng góp xuất sắc của Đào Duy Từ.
Hai trăm năm sau Nguyễn Hoàng, người Việt đã lập nghiệp tới tận chót mũi Cà Mau. Dù có những hạn chế khó tránh khỏi trong xã hội phong kiến, ta thấy sự nghiệp mở cõi của nhà Nguyễn thật lớn lao, trong đó sự xuất hiện đúng lúc của Đào Duy Từ như vì sao Bắc Đẩu, như ngọn đuốc soi đường.
Đến năm Minh Mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửa chữa lăng mộ cho ông. Năm 1932, vua Bảo Đại sắc phong Đào Duy Từ làm Thần Hoàng làng Lạc Giao, đất "Hoàng triều cương thổ" ở Buôn Ma Thuột, Dăk Lăk.
Năm Gia Long thứ tư (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được thờ ở nhà Thái Miếu,(4) được cấp 15 mẫu tự điền và sáu người trông coi phần mộ.

Tuy ông sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa nhưng làng Tùng Châu, xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn) mới thật là đất dụng võ của Đào Duy Từ, nơi đã hun đúc tài năng và ý chí của ông, giúp ông khởi nghiệp lớn. Sau khi ông qua đời, chúa Nguyễn cho đưa thi hài về mai táng và lập đền thờ tại đây. Hiện nay trên vùng đất thuộc Tùng Châu xưa vẫn còn một số di tích liên quan đến Đào Duy Từ .
Di tích lăng mộ Đào Duy Từ nay thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm Gia Long 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và sáu người trông coi phần mộ. Đến năm Minh mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại tôn tạo lăng mộ cho ông. Trải qua thời gian và chiến tranh, lăng mộ ông bị hư hại nhiều. Lần sửa sang gần đây nhất vào năm 1999.
Khu lăng mộ ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Di tích Nhà thờ Đào Duy Từ hiện tại thuộc thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn. Nhà thờ nằm trong khuôn viên một thửa đất hình chữ T có diện tích 1.616 m2, được xây dựng vào năm Tự Đức 12 (1859), đã qua nhiều lần trùng tu. Nhà thờ có tam quan cao khoảng 6m, hai mái lợp ngói âm dương, trên có bốn chữ lớn “Quốc Công Từ Môn” (cổng đền thờ Quốc công) ghép bằng mảnh sứ, hai bên đắp phù điêu hình hai con dơi cách điệu, đường nét khá sắc sảo, bốn trụ góc có hình rồng uốn lượn. Qua Tam Quan có sân nhỏ hình chữ nhật, kích thước 6.9m x 7.8m. Tiếp đến là bình phong đắp hình long mã lưng có hà đồ nỗi trên mặt nước, mặt sau đề bốn chữ “Bách Thế Bất Di” (Trăm đời không thay đổi). Ở hai bên là đôi câu đối nhắc đến lai lịch Đào Duy Từ:
Ngọc sơn chung tú Bắc
Bồng lãnh hiển danh Nam
(Núi Ngọc hun đúc tinh hoa xứ Bắc
Non Tiên vẻ vang danh tiếng miền Nam)
(Nguyễn Nam Ninh dịch)
Cách đều bình phong 2.6m về hai bên có hai cột trụ cao 4m, trên đỉnh đắp tượng hạc đứng chầu đối xứng, phía sau là sân lớn hình chữ nhật với kích thước 15.4m x 14m, qua sân lớn đến nhà thờ được thiết kế kiểu nhà mái lá, một kiểu kiến trúc truyền thống ở Bình Định. Khám thờ bên trong có bài vị của Đào Tá Hán , Nguyễn Thị Minh(1) (thân phụ và thân Mẫu của Đào Duy Từ), Đào Duy Từ và vợ. Trên bài vị Đào Duy Từ có dòng chữ “ô Thủy tổ khảo nội tán Lộc khê hầu Đào Công, tặng Khai Quốc công thần, đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sỹ, Thái sư, nhưng thủy Trung Lương, phong Hoàng Quốc Công thần chủ” Bài vị của vợ Đào Duy Từ viết “ô Thủy tổ tỉ nội tán Lộc khê hầu Hoàng Quốc Công phu nhân, Trinh thục cao thị thần chủ”. Trong nhà thờ còn có đôi câu đối nhưng nay đã sứt mòn, mờ không đọc được.
Di tích nhà thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài thuộc xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn. Sách đại nam Nhất Thống chí và đồng khánh dư địa chí đều chép đền thờ Hoàng Quốc Công Đào Duy từ ở thôn Cự Tài, huyện Bồng Sơn (nay là Hoài Nhơn). Trong chiến ranh nhà thờ này đã bị sụp đổ. Năm 1978 dòng họ Đào xin kinh phí tỉnh Nghĩa Bình để xây dựng lại đền thờ trên nền cũ, hiện chỉ còn lại hai trụ cổng và tấm đại tự cũng đề “Quốc công từ môn” (giống như nhà thờ ở thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây) là dấu tích kiến trúc năm Tự Đức thứ 32 (1880) và lần trùng tu năm Khải Định thứ 1 (1861). Trong đền thờ khám thờ là bài vị Đào Duy Từ cũng ghi giống như bài vị bên nhà thờ thôn Ngọc Sơn.

                                     Nhà thờ ở Ngọc Sơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Ngoài ra, tại thôn Ngọc Sơn còn có lăng Đào Tá Hán. Truyền rằng khi đã làm quan ở Thuận Hóa, Đào Duy từ cho đắp mộ phụ thân rồi tung tin rằng đã đưa hài cốt cha mẹ vào đây, phòng việc trả thù của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lăng mộ nằm trên một quả đồi rộng. Cũng tại Ngọc Sơn hiện có một ngôi chùa nhỏ, tương truyền là nơi đi tu của bà vợ cả họ Đào.
Những di tích kể trên, theo đơn vị hành chính hiện nay, nằm ở các thôn, xã khác nhau (lăng mộ Đào Duy Từ tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, nhà thờ và lăng mộ Đào Tá Hán tại thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây và nhà thờ ở thôn Cự Tài, xã Hoài Phú ) nhưng tất cả vốn đều thuộc vùng đất của trại Tùng Châu xưa. Đây là những xã thôn mà hiện nay con cháu Đào Duy Từ còn rất đông đảo, đặc biệt là ở thôn Cự Tài.
Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 (âm lịch) là ngày giỗ Đào Duy Từ, con cháu họ Đào tổ chức cúng tế rất long trọng. Theo quy ước, cứ vào dịp này con cháu dòng tộc điều nghỉ việc đồng áng trong ba ngày. Sau khi làm lễ thắp hương tại lăng mộ Đào Duy Từ (thôn Phụng Du) con cháu về họp mặt và dâng hương tại đền thờ cha mẹ và vợ chồng Đào Duy Từ ở thôn Ngọc Sơn rồi sau đó mới trở về tế lễ chính thức tại đền thờ Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài.
Mộ ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Ngoài ngày giỗ chính (17 tháng 10), hàng năm tại các di tích trên còn có 5 ngày lễ phụ vào dịp Đông chí, Chạp mả, Thanh minh, Trung thu và Tết Nguyên Đán. Ngày giỗ Đào Duy Từ cũng là ngày con cháu phối hợp cúng tế thân phụ và thân mẫu cùng vợ của ông. Duy bà vợ cả còn có ngày riêng là 12 tháng 2 âm lịch tại chùa tu của bà ở thôn Tài Lương. Giỗ bà hàng năm (gọi là tiểu chẩn cúng chay), cứ mười năm (gọi là trung chẩn), lễ vật có thêm đôi chim sống, một đôi gà sống, cúng xong thả chim gà ra, con cháu thi nhau đuổi bắt, cứ 30 năm (đại chẩn) mới làm cỗ mặn.
Báo Bình Định (http://www.baobinhdinh.com.vn/) có giới thiệu đền thờ Đào Duy Từ ở làng Lạc Giao thành phố Buôn Mê Thuột: "Đình Lạc Giao phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, được lập năm 1929, là ngôi đình làng đầu tiên của những người Việt (Kinh) từ đồng bằng lên đây lập nghiệp, thờ vị thành hoàng làng là Đào Duy Từ.”
Ngôi đình ban đầu làm bằng tranh tre, năm 1932, ngôi đình được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói theo hình chữ Môn, gồm có nhà thờ Thần Hoàng và những người có công với nước, hai nhà tả hữu hai bên dùng làm nơi hội họp mỗi khi tế lễ, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng có bức bình phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn. Làng Lạc Giao hình thành bắt đầu từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh sống, những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng đất xa xôi này. Ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ làm rẫy dọc theo khu rừng già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột. Năm 1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh - Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới.

Bình phong lăng ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Năm 1925, làng Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột. Tài liệu của đình Lạc Giao ghi: ông Phan Hộ, người Quảng Nam, vào Ninh Hoà (Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak chưa có đường, ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa xuyên rừng vài tháng mới tới vùng M'Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi hàng hoá với người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất đai màu mỡ lại dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh sống, khai hoang lập làng.
Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán khôn nguôi khiến họ thường tìm nhau gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn. Để có nơi cúng kiếng ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm, họ đã góp tiền của công sức dựng nên ngôi đình ngôi đình Lạc Giao cho thỏa lòng mong ước. Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiền hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.
                  Nhà bia ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho Thành hoàng của làng là Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của "Hoàng triều cương thổ".
Đúc kết, chúng ta thấy cuộc đời của Đào Duy Từ trải qua bao thăng trầm, biến thiên ẩn dật, cứ như chuyện giai thoại thần tiên mà một người bình thường dù tài trí mấy cũng khó vượt qua. Một bậc danh nhân toàn tài như Đào Duy Từ, đã cống hiến toàn lực cho công cuộc mở nước về phương Nam, đáng được các vua Triều Nguyễn tôn vinh, nhân dân tôn thờ. Một bài học “Hữu xạ tự nhiên hương” không phải nhọc công hò hét kêu gọi, ép buộc người khác sùng bái bằng xảo ngôn bất chính, tuy đắc thế một thời nhưng muôn đời sau sẽ bị nguyền rủa.

Trần Công Nhung (2015)

No comments:

Post a Comment