
Bàn làm việc

Bia Piroth

Hào tiếp viện

Thiếu nữ Thái

Hầm tướng Decastrie
Những ai đã sống qua các thời kỳ chiến tranh, chắc không còn lạ gì với cái tên Điện Biên Phủ. Thế giới, vào những ngày tháng đầu năm 54, cũng đã quá căng thẳng âu lo về một trận chiến ở đất nước nhỏ bé xa xôi này. Thuở ấy tôi còn là tuổi học trò, ăn chưa no, lo chưa tới, mỗi lần nghe nói đến: Na Sàn, Mường Thanh, Nậm Rốm... cứ tưởng như nơi rừng rú mọi rợ xa xôi, nhưng tin chiến sự hàng ngày dội về qua bao chí, radio, khiến cho tôi lúc ấy cũng hiểu rằng đất nước đang trải qua một cuộc chiến kinh hoàng giữa Pháp và quân đội Việt Minh.
Rồi mau chóng, một trang sử lật qua, quê hương chưa lành vết thương chiến tranh lại phải chia cắt “Bên ni bên nớ,” tôi tưởng không còn cơ hội để biết Hà Nội, Điện Biên, Đồ Sơn, Tam Đảo...
Ngày tháng qua mau, thế sự thay đổi, những điều tưởng khó hóa dễ, xa hóa gần. “Về nhà em, có hai đoạn đường dài, tuy xa mà gần tuy gần mà xa,” lời một bài hát tự nhiên cho tôi ý nghĩ “Mọi chuyện ở đời không có gì bị đóng khung mãi mãi.” Tất cả do tâm cầu. Những ước mơ của tôi dần dần hiện thành sự thực. Ngày nay không có gì cấm cản tôi tìm thăm mọi miền quê hương. Điện Biên có trái đường nhưng không phải khó đi. Tôi thăm dò, nhiều người khuyên đi đường bộ, tuy mất một ngày nhưng bù lại có nhiều cảnh đẹp, nhất là khi đi qua vùng đồi núi Mộc Châu.
Bến xe Giáp Bát mỗi ngày có chuyến lên Điện Biên từ 4 giờ sáng, phải vào bến ngủ trọ. Dự tính thế, nhưng đồng hành có ông bạn nghiên cứu sử, lại muốn đi máy bay, ông ngại khó và mất thì giờ. “Tùy thuận chúng sanh,” tôi không phản đối, có dịp từ trên không nhìn xuống lòng chảo Điện Biên cũng thú. Vé máy bay đi về chỉ mấy trăm nghìn đồng. Mỗi ngày có 3 chuyến bay, chứng tỏ dân mình bây gờ đi lại cũng “hào hoa phong nhã” như ai.
Sau 1 giờ bay, Điện Biên Phủ đã hiện ra dưới tầm mắt. Máy bay lượn một vòng, thả mình từ từ qua mấy lớp mây. Một cánh đồng lúa vàng, một con sông lớn bò ngòng ngoèo nước đục ngàu, một con đường thẳng tắp chạy qua thành phố nhà cửa lố nhố mái ngói mái tôn. Rải rác đó đây trên cánh đồng vàng, những đụn khói trắng lên cao, chạy dài. Máy bay càng xuống thấp hình ảnh càng rõ hơn, cạnh những đám khói là từng tốp thợ gặt. Cánh đồng lòng chảo rộng chừng hai mươi cây số, núi bao quanh. Sân bay Điện Biên nằm bên rìa thành phố, một đường băng một dãy nhà trạm, một tháp điều khiển không lưu, đơn sơ bình dị.
Khách đến khách đi không nhộn nhịp như Tân Sơn Nhất hay Nội Bài. Nhờ liên lạc trước nên tôi đã nhận ra ngay 2 cô gái đến đón. Hành trang gọn nhẹ, mỗi người mỗi xe, chúng tôi được đưa về nhà trọ cách phi trường vài cây số.
Ngày 7 tháng 5, 2004, kỷ niệm 50 năm Điện Biên Phủ, nghe nói lượng du khách tràn ngập về thành phố này, tạo nên cơn sốt khách sạn, chính quyền địa phương vội ra chỉ thị khuyến cáo dân chúng tùy nghi tiếp khách. Vậy là nhà ở trở thành phòng trọ, guest house... Nay lễ lạc đã qua nhưng “tinh thần hiếu khách” vẫn còn, nên chuyện người đến Điện Biên, muốn ở đâu tùy ý, chi phí thỏa thuận giữa hai bên. Dù nhà dân, tiền phòng cũng tương đương khách sạn. Một hai bữa tốn kém chút đỉnh chẳng sao.
Chủ nhà là người bà con với gia đình tôi quen ở Hà Nội, nên việc tiếp đón khá tươm tất, trà nước, chuyện vãn ra điều thư thả. Tôi thì lúc nào cũng như lính trận, đổ bộ là nổ súng, không để mất thời gian. Nhìn đồng hồ mới hơn 2 giờ, tôi “triển khai” ngay kế hoạch:
- Anh cho biết những điểm chúng tôi cần phải đi. Nghe nói trận địa Điện Biên còn nhiều di tích?
- Vâng, nhưng ngày nay nhiều nơi đã trở thành khu dân cư. Trong dân chúng vẫn thường nghe:
Mường Thanh Hồng Cúm Him Lam,
Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng.
Đó là những cứ điểm trọng yếu của quân Pháp mà quân ta dồn toàn lực đột phá vào những ngày đầu của trận chiến, nay không còn dấu tích nữa. Chỉ còn hầm “Đờ Cát,” đồi A 1, nghĩa trang, nhà Bảo Tàng, là những điểm quanh đây trong vòng vài cây số. Hầm Tướng Giáp xa trên 40km, phải ngày mai mới đi kịp.
Cạn chén trà tôi giục mọi người lên đường, “Kiếm thêm một xe ôm, chúng ta tận dụng chiều hôm nay. Theo lộ trình sao cho thuận để đỡ mất thì giờ.”
Mọi ngả đường đều qui về Chợ Trung Tâm, đây là trung tâm sinh hoạt mua bán của Điện Biên. Khu phố sáng sủa, nhà cửa như mới xây, xe cộ thưa thớt, không có cảnh chen lấn nhấn còi điếc tai như ở Hà Nội.
Qua chợ, vòng ra đường Nguyễn Đăng Ninh, có lối rẽ trái đi hầm De Castries, cách chừng cây số, trên đường vào xã Thanh Luông. Nhà bán vé nằm ngay cổng, hầm ở góc vườn bên trái. Trước cổng một đám người bán đồ lưu niệm linh tinh, chúng tôi lấy vé (3000 đồng) rồi tự đi tìm cửa hầm xuống xem.
Trước khi đi, tôi mường tượng, những chiến hào công sự của chiến trường Điện Biên chắc có những chi tiết đặc biệt, ít ra cũng vẽ lại cho người xem đôi nét của một trân chiến nổi tiếng toàn cầu. Nhưng lạ thay, chẳng có gì. Hầm De Castries được phục chế khá công phu: Nóc hầm là những bao cát bằng xi-măng, trên phủ những tấm ri sắt cong như mái đò, cao quá đầu. Những bao cát y như thật, đầy rêu xanh. Chu vi hầm không rộng lắm, bằng căn nhà ba gian. Đường xuống hầm hẹp khoảng 1m, sâu 3m, bước xuống là vào hầm ngay. Hầm ngăn ra 7 phòng, giữa có lối đi, trần lót ri sắt, vách bằng bao cát, chân tường chạy phên nứa cao khoảng 1m.
Tất cả bằng xi-măng nhại rất khéo. Ánh đèn điện vàng khè nhưng cũng đủ để nhận ra mọi thứ trong hầm: Độc nhất một chiếc bàn sắt không lớn, một chiếc ghế, hỏi ra, đó là bàn làm việc của tướng De Castries. Chẳng lẽ De Castries đầu hàng chỉ để lại có thế! Tôi tưởng tổng hành dinh của một Đại Tướng phải có sa bàn, trên tường phải có bản đồ diễn tiến trận địa, phải có máy móc truyền tin, nghĩa là những vật dụng chứng tích của một Bộ Chỉ Huy hành quân.
Giả dụ di vật trưng bày ở Bảo Tàng thì nên tái tạo để minh họa, không nên quá đơn giản như một hầm trú bom mà ở nơi nào cũng có thể có. Rõ ràng là chúng tôi thất vọng. Thế này thì dựng ngay hầm “De Cát” giữa thủ đô, du khách đỡ mất công lần mò đến đây chi cho mệt.
Tôi chụp vội mấy tấm ảnh rồi ra ngoài, ở lâu trong những công sự phục chế, biết đâu đã đến ngày mục cột nát kèo, ầm một cái coi như tiêu hết mọi sự. Xây cất ở xứ mình không nói chuyện bảo đảm được. Tôi nhớ năm nào Nhà Hát Bông Hồng ở Hà Nội, xây chưa khánh thành đã sập (1). Dọc đường qua Đồi A1 tôi hỏi người bạn dẫn đường:
- Tướng De Castries bị đánh bại sau cùng hay vào lúc nào?
- Đợt tấn công thứ nhất ta chiếm cứ điểm Him Lam và Độc Lập phía Đông Bắc Điên Biên Phủ. Đợt hai tấn chiếm đồi C1, riêng A1 phải mất 30 ngày. Chiều ngày 7 tháng 5, sau 56 ngày đêm, kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại quân hơn 16 nghìn người của Pháp phải đầu hàng. Ngọn cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm “Đờ Cát.”
Đồi A1 cách đó không xa. Ngọn đồi cao hơn mươi mét, không lớn lắm. Lưng chừng dốc lên Đồi có “Bia kỷ niệm” nơi trung tá Piroth, chỉ huy pháo binh, đã tự tử sau khi không giữ được lời thề “ Sẽ dập họng súng của Việt Minh khi chúng mới khai hỏa.” Đúng khí phách một quân nhân. Tướng phải chết theo thành.
Đang lên đồi thì chợt có một cánh dù đỏ từ trên xuống, một cô Thái áo trắng váy đen, làm tôi nhớ lại hình ảnh cô Xoan bán rau ở chợ Tuần Châu mấy năm trước. Tôi cười trong bụng “mình hên thật.”
Vừa tầm tôi bấm máy thoải mái, ánh sáng chiều vừa phải, cảnh sắc rõ ràng. Anh bạn nghiên cứu sử thì máy ảnh bất động, đi thẳng lên đồi. Hứng chí tôi lại gọi từ xa, “Lui lại rồi từ từ đi xuống, như thế đúng rồi.” – “Qua trái một tí.” – “Dừng lại, ngã dù ra sau một tí...” Tôi chỉ huy như người mẫu của mình. Chụp xong, đến cảm ơn, lúc ấy có người đàn bà cùng đi với cô gái chào hàng, “Mời bác... ngày nghỉ cháu đến đây cho khách chụp ảnh để mừng tuổi ....” Tôi hiểu ngay, thảo nào mà “người mẫu” dễ thế, lại ăn mặc rất chỉnh, áo váy mới tinh, guốc cao gót... tuy không đẹp bằng cô Xoan song cũng không đến nỗi nào (2). Nhưng tuổi này còn mừng nỗi gì.
- Cháu hiện làm gì?
- Dạ cháu còn đi học.
Tôi ngạc nhiên, cô Xoan 15 tuổi đã theo chồng. Cô này ít ra cũng mấy con.
- Tôi thấy người “dân tộc” lấy chồng sớm lắm mà.
Người mẹ nhanh nhẩu:
- Không phải đâu, tùy gia đình, cháu mới 18 tuổi, đang học lớp 12. Bác thấy tóc cháu búi ở sau là biết.
- Bà nói vậy nghĩa là thế nào?
- Cô nào đã có chồng tóc phải quấn cao trên đầu ạ.
- Thế nhỡ có người muốn dấu cứ quấn ra sau thì sao?
- Không được đâu, dân bản sẽ tố cáo không cho phép.
Hèn nào nhiều bà Thái đội nón cứ cao lêu khêu. Người mẹ lại mời, “Bác mua hộ, rồi muốn chụp bao nhiêu cũng được.”
– “Vâng, lên đồi tôi chụp thêm mấy tấm rồi mua.”
Từ trên cao nhìn xuống cánh đồng Mường Thanh và thành phố Điện Biên có vẻ đẹp lạ lùng. Một khu nhà mái ngói đỏ nằm ven cánh đồng lúa vàng, những đụn khói trắng lên cao, ngoài xa núi lam bao bọc. Tôi gọi nhà sử học, “Ông ơi, bấm giùm tôi.” Tôi đưa máy cho ông bạn rồi đứng chụp với cô nữ sinh mấy kiểu. Sau đó tôi mua một chiếc khăn Piêu giá 50,000 đồng (mà không dùng vào việc gì cả).
Hầm đồi A1 đang được tôn tạo, công nhân đang lên xuống làm việc, chúng tôi chỉ đi quanh chẳng xuống làm gì. Biết chắc cũng chỉ là cái hầm trống trơn mà thôi. A1 là cứ điểm mạnh nhất của quân đội Pháp, Việt Minh phải mất 30 ngày mới phá nổi. Anh bạn cho biết, “Đồi A1 có nhiệm vụ bảo vệ hầm chỉ huy của “ Đờ Cát.” Bên cạnh còn có trung tá Piroth chỉ huy pháo binh Pháp. Ngày đêm đạn pháo rầm trời, quân đội VM tiến dần theo địa đạo mỗi ngày. Trong tình thế bị vây hãm, đến lúc lính Pháp trong hầm nghe tiếng cuốc xẻng đào công sự, biết là Việt Minh sắp vào mà đành bó tay. Đúng ngày giờ đã định một quả bộc phá 1,000 cân cho nổ, tất cả lính Pháp trong hầm chết nguyên vị thế mà không thương tích. Nghĩa là chết vì sức ép.” Người bạn chỉ cho chúng tôi một hố sâu, rộng như cái giếng làng, cách nóc hầm chừng mươi mét và nói tiếp, “Vì định tọa độ không chính xác nên không phá được hầm.” Trên hầm có xác xe tăng “Gazeille” và một lăng mộ của “4 anh hùng vô danh.”
Chúng tôi đi qua Nghĩa trang cạnh đồi A1, một nghĩa trang khá lớn, khác với khu mộ liệt sĩ các nơi. Cổng Tam Quan vào nghĩa trang làm kiểu vọng lâu 3 tầng. Thành dài cũng phải mấy trăm mét, có đắp phù điêu thếp vàng, đồ sộ nguy nga. Trước thành là một quảng trường rộng lớn, nhiều nghìn người thừa chỗ đứng để mít tin.
Trời đã chiều, chúng tôi xem qua rồi đi thăm thành Bản Phủ. Thăm đồng lúa Điện Biên, lên Bản Mển. Điện Biên, một vùng đất đã đi vào lịch sử và cũng là nơi đầy ắp những hình ảnh sinh hoạt của miền xuôi lẫn miền ngược. Điện Biên không thể nhìn chung chung như Sapa, Cao Bằng. Điên Biên đa dạng và nhiều màu sắc hơn nhiều.
Rồi mau chóng, một trang sử lật qua, quê hương chưa lành vết thương chiến tranh lại phải chia cắt “Bên ni bên nớ,” tôi tưởng không còn cơ hội để biết Hà Nội, Điện Biên, Đồ Sơn, Tam Đảo...
Ngày tháng qua mau, thế sự thay đổi, những điều tưởng khó hóa dễ, xa hóa gần. “Về nhà em, có hai đoạn đường dài, tuy xa mà gần tuy gần mà xa,” lời một bài hát tự nhiên cho tôi ý nghĩ “Mọi chuyện ở đời không có gì bị đóng khung mãi mãi.” Tất cả do tâm cầu. Những ước mơ của tôi dần dần hiện thành sự thực. Ngày nay không có gì cấm cản tôi tìm thăm mọi miền quê hương. Điện Biên có trái đường nhưng không phải khó đi. Tôi thăm dò, nhiều người khuyên đi đường bộ, tuy mất một ngày nhưng bù lại có nhiều cảnh đẹp, nhất là khi đi qua vùng đồi núi Mộc Châu.
Bến xe Giáp Bát mỗi ngày có chuyến lên Điện Biên từ 4 giờ sáng, phải vào bến ngủ trọ. Dự tính thế, nhưng đồng hành có ông bạn nghiên cứu sử, lại muốn đi máy bay, ông ngại khó và mất thì giờ. “Tùy thuận chúng sanh,” tôi không phản đối, có dịp từ trên không nhìn xuống lòng chảo Điện Biên cũng thú. Vé máy bay đi về chỉ mấy trăm nghìn đồng. Mỗi ngày có 3 chuyến bay, chứng tỏ dân mình bây gờ đi lại cũng “hào hoa phong nhã” như ai.
Sau 1 giờ bay, Điện Biên Phủ đã hiện ra dưới tầm mắt. Máy bay lượn một vòng, thả mình từ từ qua mấy lớp mây. Một cánh đồng lúa vàng, một con sông lớn bò ngòng ngoèo nước đục ngàu, một con đường thẳng tắp chạy qua thành phố nhà cửa lố nhố mái ngói mái tôn. Rải rác đó đây trên cánh đồng vàng, những đụn khói trắng lên cao, chạy dài. Máy bay càng xuống thấp hình ảnh càng rõ hơn, cạnh những đám khói là từng tốp thợ gặt. Cánh đồng lòng chảo rộng chừng hai mươi cây số, núi bao quanh. Sân bay Điện Biên nằm bên rìa thành phố, một đường băng một dãy nhà trạm, một tháp điều khiển không lưu, đơn sơ bình dị.
Khách đến khách đi không nhộn nhịp như Tân Sơn Nhất hay Nội Bài. Nhờ liên lạc trước nên tôi đã nhận ra ngay 2 cô gái đến đón. Hành trang gọn nhẹ, mỗi người mỗi xe, chúng tôi được đưa về nhà trọ cách phi trường vài cây số.
Ngày 7 tháng 5, 2004, kỷ niệm 50 năm Điện Biên Phủ, nghe nói lượng du khách tràn ngập về thành phố này, tạo nên cơn sốt khách sạn, chính quyền địa phương vội ra chỉ thị khuyến cáo dân chúng tùy nghi tiếp khách. Vậy là nhà ở trở thành phòng trọ, guest house... Nay lễ lạc đã qua nhưng “tinh thần hiếu khách” vẫn còn, nên chuyện người đến Điện Biên, muốn ở đâu tùy ý, chi phí thỏa thuận giữa hai bên. Dù nhà dân, tiền phòng cũng tương đương khách sạn. Một hai bữa tốn kém chút đỉnh chẳng sao.
Chủ nhà là người bà con với gia đình tôi quen ở Hà Nội, nên việc tiếp đón khá tươm tất, trà nước, chuyện vãn ra điều thư thả. Tôi thì lúc nào cũng như lính trận, đổ bộ là nổ súng, không để mất thời gian. Nhìn đồng hồ mới hơn 2 giờ, tôi “triển khai” ngay kế hoạch:
- Anh cho biết những điểm chúng tôi cần phải đi. Nghe nói trận địa Điện Biên còn nhiều di tích?
- Vâng, nhưng ngày nay nhiều nơi đã trở thành khu dân cư. Trong dân chúng vẫn thường nghe:
Mường Thanh Hồng Cúm Him Lam,
Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng.
Đó là những cứ điểm trọng yếu của quân Pháp mà quân ta dồn toàn lực đột phá vào những ngày đầu của trận chiến, nay không còn dấu tích nữa. Chỉ còn hầm “Đờ Cát,” đồi A 1, nghĩa trang, nhà Bảo Tàng, là những điểm quanh đây trong vòng vài cây số. Hầm Tướng Giáp xa trên 40km, phải ngày mai mới đi kịp.
Cạn chén trà tôi giục mọi người lên đường, “Kiếm thêm một xe ôm, chúng ta tận dụng chiều hôm nay. Theo lộ trình sao cho thuận để đỡ mất thì giờ.”
Mọi ngả đường đều qui về Chợ Trung Tâm, đây là trung tâm sinh hoạt mua bán của Điện Biên. Khu phố sáng sủa, nhà cửa như mới xây, xe cộ thưa thớt, không có cảnh chen lấn nhấn còi điếc tai như ở Hà Nội.
Qua chợ, vòng ra đường Nguyễn Đăng Ninh, có lối rẽ trái đi hầm De Castries, cách chừng cây số, trên đường vào xã Thanh Luông. Nhà bán vé nằm ngay cổng, hầm ở góc vườn bên trái. Trước cổng một đám người bán đồ lưu niệm linh tinh, chúng tôi lấy vé (3000 đồng) rồi tự đi tìm cửa hầm xuống xem.
Trước khi đi, tôi mường tượng, những chiến hào công sự của chiến trường Điện Biên chắc có những chi tiết đặc biệt, ít ra cũng vẽ lại cho người xem đôi nét của một trân chiến nổi tiếng toàn cầu. Nhưng lạ thay, chẳng có gì. Hầm De Castries được phục chế khá công phu: Nóc hầm là những bao cát bằng xi-măng, trên phủ những tấm ri sắt cong như mái đò, cao quá đầu. Những bao cát y như thật, đầy rêu xanh. Chu vi hầm không rộng lắm, bằng căn nhà ba gian. Đường xuống hầm hẹp khoảng 1m, sâu 3m, bước xuống là vào hầm ngay. Hầm ngăn ra 7 phòng, giữa có lối đi, trần lót ri sắt, vách bằng bao cát, chân tường chạy phên nứa cao khoảng 1m.
Tất cả bằng xi-măng nhại rất khéo. Ánh đèn điện vàng khè nhưng cũng đủ để nhận ra mọi thứ trong hầm: Độc nhất một chiếc bàn sắt không lớn, một chiếc ghế, hỏi ra, đó là bàn làm việc của tướng De Castries. Chẳng lẽ De Castries đầu hàng chỉ để lại có thế! Tôi tưởng tổng hành dinh của một Đại Tướng phải có sa bàn, trên tường phải có bản đồ diễn tiến trận địa, phải có máy móc truyền tin, nghĩa là những vật dụng chứng tích của một Bộ Chỉ Huy hành quân.
Giả dụ di vật trưng bày ở Bảo Tàng thì nên tái tạo để minh họa, không nên quá đơn giản như một hầm trú bom mà ở nơi nào cũng có thể có. Rõ ràng là chúng tôi thất vọng. Thế này thì dựng ngay hầm “De Cát” giữa thủ đô, du khách đỡ mất công lần mò đến đây chi cho mệt.
Tôi chụp vội mấy tấm ảnh rồi ra ngoài, ở lâu trong những công sự phục chế, biết đâu đã đến ngày mục cột nát kèo, ầm một cái coi như tiêu hết mọi sự. Xây cất ở xứ mình không nói chuyện bảo đảm được. Tôi nhớ năm nào Nhà Hát Bông Hồng ở Hà Nội, xây chưa khánh thành đã sập (1). Dọc đường qua Đồi A1 tôi hỏi người bạn dẫn đường:
- Tướng De Castries bị đánh bại sau cùng hay vào lúc nào?
- Đợt tấn công thứ nhất ta chiếm cứ điểm Him Lam và Độc Lập phía Đông Bắc Điên Biên Phủ. Đợt hai tấn chiếm đồi C1, riêng A1 phải mất 30 ngày. Chiều ngày 7 tháng 5, sau 56 ngày đêm, kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại quân hơn 16 nghìn người của Pháp phải đầu hàng. Ngọn cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm “Đờ Cát.”
Đồi A1 cách đó không xa. Ngọn đồi cao hơn mươi mét, không lớn lắm. Lưng chừng dốc lên Đồi có “Bia kỷ niệm” nơi trung tá Piroth, chỉ huy pháo binh, đã tự tử sau khi không giữ được lời thề “ Sẽ dập họng súng của Việt Minh khi chúng mới khai hỏa.” Đúng khí phách một quân nhân. Tướng phải chết theo thành.
Đang lên đồi thì chợt có một cánh dù đỏ từ trên xuống, một cô Thái áo trắng váy đen, làm tôi nhớ lại hình ảnh cô Xoan bán rau ở chợ Tuần Châu mấy năm trước. Tôi cười trong bụng “mình hên thật.”
Vừa tầm tôi bấm máy thoải mái, ánh sáng chiều vừa phải, cảnh sắc rõ ràng. Anh bạn nghiên cứu sử thì máy ảnh bất động, đi thẳng lên đồi. Hứng chí tôi lại gọi từ xa, “Lui lại rồi từ từ đi xuống, như thế đúng rồi.” – “Qua trái một tí.” – “Dừng lại, ngã dù ra sau một tí...” Tôi chỉ huy như người mẫu của mình. Chụp xong, đến cảm ơn, lúc ấy có người đàn bà cùng đi với cô gái chào hàng, “Mời bác... ngày nghỉ cháu đến đây cho khách chụp ảnh để mừng tuổi ....” Tôi hiểu ngay, thảo nào mà “người mẫu” dễ thế, lại ăn mặc rất chỉnh, áo váy mới tinh, guốc cao gót... tuy không đẹp bằng cô Xoan song cũng không đến nỗi nào (2). Nhưng tuổi này còn mừng nỗi gì.
- Cháu hiện làm gì?
- Dạ cháu còn đi học.
Tôi ngạc nhiên, cô Xoan 15 tuổi đã theo chồng. Cô này ít ra cũng mấy con.
- Tôi thấy người “dân tộc” lấy chồng sớm lắm mà.
Người mẹ nhanh nhẩu:
- Không phải đâu, tùy gia đình, cháu mới 18 tuổi, đang học lớp 12. Bác thấy tóc cháu búi ở sau là biết.
- Bà nói vậy nghĩa là thế nào?
- Cô nào đã có chồng tóc phải quấn cao trên đầu ạ.
- Thế nhỡ có người muốn dấu cứ quấn ra sau thì sao?
- Không được đâu, dân bản sẽ tố cáo không cho phép.
Hèn nào nhiều bà Thái đội nón cứ cao lêu khêu. Người mẹ lại mời, “Bác mua hộ, rồi muốn chụp bao nhiêu cũng được.”
– “Vâng, lên đồi tôi chụp thêm mấy tấm rồi mua.”
Từ trên cao nhìn xuống cánh đồng Mường Thanh và thành phố Điện Biên có vẻ đẹp lạ lùng. Một khu nhà mái ngói đỏ nằm ven cánh đồng lúa vàng, những đụn khói trắng lên cao, ngoài xa núi lam bao bọc. Tôi gọi nhà sử học, “Ông ơi, bấm giùm tôi.” Tôi đưa máy cho ông bạn rồi đứng chụp với cô nữ sinh mấy kiểu. Sau đó tôi mua một chiếc khăn Piêu giá 50,000 đồng (mà không dùng vào việc gì cả).
Hầm đồi A1 đang được tôn tạo, công nhân đang lên xuống làm việc, chúng tôi chỉ đi quanh chẳng xuống làm gì. Biết chắc cũng chỉ là cái hầm trống trơn mà thôi. A1 là cứ điểm mạnh nhất của quân đội Pháp, Việt Minh phải mất 30 ngày mới phá nổi. Anh bạn cho biết, “Đồi A1 có nhiệm vụ bảo vệ hầm chỉ huy của “ Đờ Cát.” Bên cạnh còn có trung tá Piroth chỉ huy pháo binh Pháp. Ngày đêm đạn pháo rầm trời, quân đội VM tiến dần theo địa đạo mỗi ngày. Trong tình thế bị vây hãm, đến lúc lính Pháp trong hầm nghe tiếng cuốc xẻng đào công sự, biết là Việt Minh sắp vào mà đành bó tay. Đúng ngày giờ đã định một quả bộc phá 1,000 cân cho nổ, tất cả lính Pháp trong hầm chết nguyên vị thế mà không thương tích. Nghĩa là chết vì sức ép.” Người bạn chỉ cho chúng tôi một hố sâu, rộng như cái giếng làng, cách nóc hầm chừng mươi mét và nói tiếp, “Vì định tọa độ không chính xác nên không phá được hầm.” Trên hầm có xác xe tăng “Gazeille” và một lăng mộ của “4 anh hùng vô danh.”
Chúng tôi đi qua Nghĩa trang cạnh đồi A1, một nghĩa trang khá lớn, khác với khu mộ liệt sĩ các nơi. Cổng Tam Quan vào nghĩa trang làm kiểu vọng lâu 3 tầng. Thành dài cũng phải mấy trăm mét, có đắp phù điêu thếp vàng, đồ sộ nguy nga. Trước thành là một quảng trường rộng lớn, nhiều nghìn người thừa chỗ đứng để mít tin.
Trời đã chiều, chúng tôi xem qua rồi đi thăm thành Bản Phủ. Thăm đồng lúa Điện Biên, lên Bản Mển. Điện Biên, một vùng đất đã đi vào lịch sử và cũng là nơi đầy ắp những hình ảnh sinh hoạt của miền xuôi lẫn miền ngược. Điện Biên không thể nhìn chung chung như Sapa, Cao Bằng. Điên Biên đa dạng và nhiều màu sắc hơn nhiều.
Trần Công Nhung
No comments:
Post a Comment