
Mái đình Hoành Sơn bị sạt lở (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Theo lời hướng dẫn của bác nhân viên trực đền Hồng Sơn (1) tôi theo đường 558 đến cuối đường rẽ trái qua câu sắt Yên Xuân đi về xã Khánh Sơn huyện Nam Đàn, nơi tọa lạc đình Hoành Sơn. Đoạn đường không xa, chừng 20km song phải qua nhiều khúc quanh co, lúc chạy qua làng, khi chạy trên đê, phải thăm chừng luôn mới không lạc hướng.
Tôi thầm nghĩ, đình thì nơi nào cũng na ná nhau thôi. Cái thú ở đây là được đến vùng xa lạ, cảnh vật có nhiều sắc thái khác thường, lòng luôn háo hức tìm kiếm khám phá cái mới. Sự đổi thay của cảnh quan lôi cuốn và đánh thức mọi giác quan của người đi đường. Nhờ thế khách lữ hành không hề thấy mệt mõi trái lại lúc nào và nơi đâu cũng đáng biết đáng ghi.
Lúc qua cầu Yên Xuân, nhìn xuống dòng sông Lam, phải nói đẹp lạ lùng dù nước sông màu vàng đục. Ngay hạ lưu mà dòng sông uốn khúc mấy lần, hình ảnh uyển chuyển êm đềm. Những con đò hiền hòa kề bên nhau từng cụm như cùng chuyện trò. Mui đò miền này hơi khác trong Nam, mui bằng tre đan không lợp lá, phía mũi cao hơn và hai ba lớp cơi lên nhau trông như cái mai con trút. Tôi dừng lại một lúc để thưởng thức vẻ đẹp của dòng sông Lam, dòng sông của thi ca không của làng chài. Rất tiếc tôi không là thi sĩ để có đôi câu ngợi ca dòng sông và con đò xứ Nghệ. Con đò nơi đây khác với con đò của cụ Cao Bá Quát khi có ý dèm pha làng thơ xứ Huế: “Ngán cho cái mũi vô duyên. Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An”. Những con đò trên sông Lam không có “mùi” mà đầy thi vị.

Sông Lam
Sông Lam núi Hồng (Lĩnh) là biểu tượng đã đi vào hồn người xứ Nghệ:
“Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh, nhớ núi Hồng Lĩnh,
nhớ dòng sông La (một nhánh của sông Lam), nhớ biển rộng quê ta...”.
Qua Cầu Yên Xuân tôi men theo đê sông Lam, nhìn xuống dọc dòng sông, nhiều thuyền bôm cát cho ngành xây cất. Qua một đoạn, bãõi bồi từng nhóm người đang nhổ đậu phụng (lạc). Tuy công việc đồng áng mà rất nhàn nhã, chỗ vài ba người, không vội vã như ngày mùa lúa chín. Thuở trước thấy trong sách truyện hay mô tả tiếng hò cô lái đò trên sông, tiếng hát trên đồng của chị đi cấy, ngày nay tuyệt nhiên không thấy gì, kể cả tiếng chim trời, con người lầm lũi với công việc. Cảnh có đẹp và yên bình mà vắng lặng. Có thể do cuộc sống chắt buộc quá nên không mấy ai còn nghĩ đến chuyện hát hò? Ngày nay nông dân từ từ được thị hóa, một số ra đồng bằng xe máy xe đạp, quần jean, màu sắc như đi hội, xuống ruộng mang ủng, không chân trần như ngày xưa. Trên đê một con bò vàng nằm nhai lại cạnh chiếc xe máy đỏ chói, một hình ảnh mới của đồng quê hôm nay.

Mùa đậu phụng (lạc)
Lúc đến gần một xóm làng thì sên xe nổi lên “reẹc reẹc” tôi có cảm giác sên muốn đứt. Tôi giảm tay ga, thả xe lăn từ từ xuống đường rồi dắt bộ vào làng. Tôi bắt đầu lo, chỗ quê mùa vầy liệu có ai sửa xe chăng. Mấy phút sau có người đạp xe qua tôi hỏi: “Trong làng có ai sửa xe không chị”? – “Chú vô một khúc nữa có nhà sửa xe”. Tôi thở phào, và nỗi mệt mỏi lo âu tan biến ngay. Tiệm sửa xe là một mái nhà gạch nhỏ, trước sân có dựng tấm bảng “Sửa xe máy”. Dắt xe vào sân tôi gọi to: “Sửa dùm xe đi”, “Sửa dùm xe...”, la to thế mà chẳng ai lên tiếng. Chắc thợ sửa xe đi cuốc đất cũng nên. Gọi thêm mấy lần nữa, không thấy gì, tôi bắt đầu nản và chẳng biết xoay xở sao thì đúng lúc có một anh chàng đi ra, tôi phản ứng ngay: “Sửa xe gì mà kêu muốn chết” – “Dạ nay là ơ rô 82 mà chú”. Tôi bật cười, à thì ra ông này mãi dán mắt vào TV, giải World Cup Euro 82. Thảo nào. Tôi cười giả lả:
- Coi dùm sên xe chú nó kêu quá.
- Dạ được, chú chạy xe trong Nha Trang ra hả?
- Sao cháu biết?
- Số 79 của Nha Trang, cháu trước kia có làm việc trong đó.- Thế hả, ừ giúp chú tí.

Chạm trổ đầu cột
Tự nhiên tôi thấy yên tâm hơn như thể gặp người quen. Anh thợ mang đồ nghề ra và bắt đầu việc kiểm tra “sự cố”.
- Xích chú gần đứt, may chớ đứt là bể máy luôn.
- Vậy hả, giờ sửa được không?
- Dạ, cháu cắt một mắt rồi nối lại, không sao.
Anh thợ loay hoay tháo bánh tháo sên, lâu lâu sai cháu bé 3 tuổi chạy lấy thứ này thứ nọ. Tôi ngạc nhiên thấy con bé hiểu hết công việc của bố. Xích xong đến bạc đạn, tôi bảo thay luôn. Tất cả chỉ 80 nghìn đồng. Tôi đưa anh luôn 100 nghìn (5 đô). Giữa chôn quê mùa hoang vắng mà có người giúp cho như vậy là quá hên. Tôi hỏi đường vô đình Hoành Sơn, anh thợ cho biết còn mấy cây nữa.
Tuy xe đã sửa, tôi cũng không dám chạy nhanh, không lên đê mà chạy dưới đường làng, đường nhựa mát bóng tre xanh. Chỉ mấy phút đã thấy bảng “Đình Hoành Sơn.Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Quốc Gia” cắm trên bờ đê, đối diện cổng đình. Tôi hơi ngạc nhiên, cổng đình mà như cổng nhà ở, tường thì thấp chừng 1 mét, ai leo vào cũng được. Cổng khóa bằng xích sắt. Dưới tàn mấy cây bàng trước sân, mái đình oằn oằn, tường vôi trắng, trông thiểu não, không có vẻ gì là di tích. Lui tới không thấy ai. Lát sau có người đi qua cho hay “Chú vô theo hẻm bên hông đình, ra sau có nhà bác bảo vệ”. Tôi dắt xe luồn ra sau vườn chuối, thấy có bà già đang sàng sảy dưới hiên mái nhà tranh. Tồi lần đến và hỏi nhỏ: “Thưa bác tôi muốn hỏi thăm bác bảo vệ đình”. Bà già ngưng tay nhìn tôi mọât lúc, tôi nói rõ thêm: “Tôi ở xa nghe tiếng đình Hoành Sơn nên đến thăm”. Bấy giờ bà già mới lên tiếng:
- Ông nớ đi khỏi rồi.
- Dạ chừng nào bác ấy về?
- Không biết mô.
Tôi năn nỉ bà già: “Tôi ở tuốt Nha Trang ra đây thăm Đình, bác có cách gì mở dùm cửa cho tôi vào xem ít phút thôi. Vì tôi còn phải chạy vào Đồng Hới hôm nay”. Bà già nghĩ ngợi một lúc rồi vô nhà xách xâu chìa khóa ra giao cho tôi: “Cái ni là khóa cổng, cái ni khóa cửa đình…”. Tôi rất mừng mang chìa khóa đi ngay.
Mặt tiền đình Hoành Sơn hơi tối, chỉ có cửa gỗ bàn khoa gian giữa, trên cửa treo bảng nội qui:
Nội quy
Bảo vệ di tích đình Hoành Sơn
1 Mọi người phải có trách nhiệm bảo vệ di tích văn hóa đình Hoành sơn đã được nhà nước xếp hạng số 92 ngày 10 – 7 – 80
2 Cấm: Chăn thả gia súc hoặc đưa rơm rạ, vật chất khác vào để trong khu vực đình.
Cấm: khai thác đất đá chặt phá cây cảnh trong diện tích được nhà nước và địa phương qui hoạch quản lý di tích.
3 Khách đến lễ tự, tham quan phải báo cho bảo vệ di tích biết và chấp hành các hướng dẫn của nhân viên bảo vệ không tự tiện chuyển dời di vật của đình.
4 Ai vi phạm nội quy trên phải chịu trách nhiệm theo pháp lệnh.
UBND xã Khánh Sơn
Pháp lệnh số 14 ngày 4.4.1984

Bàn thờ trong đình
Hai bên cửa chính, xây tường và trổ thêm 2 cửa “pa nô”â nhỏ. Trông bên ngoài, đình không có gì đặc biệt. Mở cửa vào trong tôi càng ngạc nhiên hơn, mấy gian trống trơn, không trống không cờ, bàn thờ là bệ xây trơ trọi có mấy pho tượng Phật lớn nhỏ bày biện lộn xộn, một bát nhang sơ sài. Tất cả bụi phủ một lớp dày. Tôi có cảm tưởng như đình bỏ hoang. Nhưng, xem kỹ thì thấy đình có mấy điểm đặc biệt:
- Cột đình bằng gỗ lim, có 32 cột, đường kính trên 40 phân, 12 cột cái cao trên 5 mét. 20 cột con cao gần 4 mét.
- Các đầu kèo và cột đều có chạm trổ công phu tỉ mỉ, lối chạm của đình Hoành Sơn khá đặc biệt: Không chạm thẳng tròn cột mà chạm riêng và gắn vào, do đó trông rất mạnh mẽ và uy nghiêm.
Vì không gặp người bảo vệ nên không biết Thành Hoàng của đình là vị nào, và nguồn gốc ban sơ của đình do ai xây dựng. Về sau tìm hiểu qua sử liệu được biết đình Hoành Sơn là một kỳ công trong kiến trúc và cũng có giai thoại rất lạ trong thời kỳ tạo lập.
Đình Hoành Sơn, tại làng Hoành Sơn,(1) xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đình có năm gian, hai chái và hậu cung nhỏ phía sau. Mỗi gian do một nhóm thợ mộc đảm nhận, nên từng gian, có một sắc thái nghệ thuật riêng. Đình có 12 cột chính, 20 cột phụ, mỗi cột có chu vi khoảng 200 cm. Nhìn chung, đình Hoành Sơn còn giữ được nhiều nét nghệ thuật thời Lê. Kiến trúc của đình, có tính chất khái quát cao trong bố cục, sự hài hòa giữa từng phần và toàn cục, giữa đường nét và hình khối.
Nét nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở đình Hoành Sơn, phỏng theo lối kiến trúc thế kỷ XVII -XVIII. Các vì kèo liên kết theo cấu trúc “chồng diêm,” có những bức chạm khắc “lưỡng long chầu nguyệt” rất đẹp. Các cột đình đều có đường kính trên 50cm và là phần chịu lực của toàn bộ kết cấu đình.
Đình Hoành Sơn, là nơi thờ thần và sinh hoạt về kinh tế, văn hóa và tâm linh của nhân dân trong làng và các làng phụ cận. Đình Hoành Sơn, là một công trình tưởng niệm chung tất cả những người đã đóng góp lớn lao cho sự ra đời, trưởng thành, phát triển và phồn thịnh của làng Hoành Sơn nói riêng, nước Việt Nam nói chung.
Đình Hoành Sơn là một trong những đình làng lớn, không chỉ của Nam Đàn, mà còn của cả Nghệ An và cả nước.
Nghệ thuật điêu khắc tại Hoành Sơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Người dân xã Khánh Sơn cho biết, đình Hoành Sơn đã có từ lâu đời, qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng vẫn giữ gần như nguyên vẹn lối kiến trúc ban đầu, vẻ đẹp uy nghi của một ngôi đình cổ, có lối kiến trúc độc đáo bậc nhất xứ Nghệ.
Ngày trước, đình có tên là đình Nam Hoa, rồi Làng Ngang, thuộc tổng Nam Kim. Không ai biết tên đình thay đổi từ bao giờ cũng như không biết chính xác đình được xây dựng năm nào chỉ biết đây là một “báu vật” của làng, là chứng tích qua nhiều biến thiên, thăng trầm của lịch sử.
Theo truyền khẩu thì niên đại của đình có lẽ là khoảng năm 1730, đó là luận ra từ việc so sánh tính đồng dạng của vật thể. Nghĩa là vào năm 1730 tại Hà Nội có một ngôi đình có lối kiến trúc rất giống kết cấu của đình Hoành Sơn, nên họ cho rằng, đình Hoành Sơn được dựng trong thời gian này. Cũng có nhiều nhà sư đến thăm đình nói rằng, Xuân Long tự ở xóm Nam Đông (Khánh Sơn) được xây dựng từ thế kỷ XIII có kiến trúc tương tự đình Hoành Sơn. Vì vậy, đình Hoành Sơn phải được xây dựng vào thế kỷ XIII.
Một ít tài liệu còn khẳng định đình Hoành Sơn được xây vào tháng Chạp năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (2/1763) và đến cuối năm sau (Quý Mùi 1764) thì hoàn thành. Người khởi xướng và chủ sự xây dựng công trình này là Đặng Thạc, cử nhân dưới triều vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) thuộc dòng dõi thế tộc và có uy quyền nhất vùng. Sau khi về hưu, ông huy động tiền của trong dân mua gỗ quý, mời các toán thợ giỏi về xây đình cho làng ngay trên vườn nhà mình.
Tương truyền nhiều toán thợ giỏi nổi tiếng đến cùng nhận làm. Toán thợ Nam Hoa Thượng không được mời thử sức, họ bèn bày mưu cử người thợ giỏi nhất tên Chuẩn giả dạng ăn mày đến chỗ làm đình, xin ngủ lại rồi cố tình đốt cháy một vì kèo ở phía Nam của đình. Đặng Thạc vô cùng tức giận nhưng người ăn mày đã xin được làm lại. Và chỉ trong một thời gian ngắn, người ăn mày đã làm một bức chạm rất đẹp khiến cả hội đồng kỳ mục của làng phải kinh ngạc và thán phục. Sau này nhân dân đã suy tôn Đặng Thạc và người thợ tên Chuẩn thành những vị phúc Thần của làng.
Cột đình mục nát tại Hoành Sơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Cũng có giả thuyết cho rằng, sự ra đời của đình Hoành Sơn gắn liền với một câu chuyện hết sức huyền bí. Vào một năm cách đây đã lâu lắm rồi, nước sông Lam tự nhiên dâng rất cao, dân Hoành Sơn phải chạy lên núi Ngang để tránh lụt. Giữa một đêm trời mưa như trút, sấm chớp ầm ầm, người ta thấy nổi lên những cây gỗ 3 - 4 người ôm không xuể từ thượng nguồn trôi về, dạt vào bãi bồi trước làng. Tiếp đó, có 9 người đàn ông xuất hiện đến bên đống gỗ ra sức cưa, đục, đẽo. Sau ba năm ròng rã, họ làm thành một cái đình đồ sộ và được chạm trổ, trang trí rất công phu, tinh xảo. Xong việc, 9 người đàn ông cũng đi mất mà không ai biết. Có lẽ đây là một trong những nguyên nhân khiến người dân Khánh Sơn tin rằng, đình Hoành Sơn thực sự là chốn linh thiêng, là “báu vật” của làng.
Đình có nhiều đặc điểm khác hẳn với đình cổ nơi khác như: hoa văn trong đình được chạm khắc rất công phu, tinh xảo, được các nghệ sĩ tài hoa thể hiện trên các bộ phận của đình: bát tiên cưỡi hạc đánh cờ, đua thuyền, tứ linh, tứ quý, đại bàng đối xứng từng gian, rồng ổ... thể hiện quan điểm triết lý nhân sinh thấm đẫm tinh thần nhân văn của dân tộc. Cột đình ở gian chính được chạm nổi hình tượng cặp long giáng. Trên mái đình có hình tượng rồng cuộn, hổ quì, nghê chầu; mái lợp ngói âm dương. Giữa lớp ngói âm và ngói dương là một lớp đất sét được nhào trộn với trấu, tạo thành một chất liệu bền, dẻo có tính cách nhiệt tốt. Ngói dương có 5 rãnh chẻ thoát nước; nền và sân đình được lát bằng gạch cẩm trang... Mặc dù trải qua nhiều trận lũ lớn, bom đạn chiến tranh nhưng đến nay đình Hoành Sơn hầu như vẫn giữ được nét kiến trúc ban sơ.
Nguyên thủy, nhân vật được thờ chính trong đình là Uy Minh vương Lý Nhật Quang, con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, một nhân vật văn võ song toàn, tư chất hơn người. Tháng 11 năm 1041, vua Lý Thánh Tông đã xuống chiếu cho Lý Nhật Quang làm Tri châu Nghệ An. Ông đã có nhiều đóng góp lớn lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vùng đất Nghệ An và quốc gia Đại Việt nên được người dân rước vào đình thờ. Ngoài ra, đình còn thờ “Tứ vị Thánh nương.”(2)
Tương truyền, trong đình có hơn 100 pho tượng nhưng vào trận lũ lịch sử năm 1978 và 1988 đã làm con đê chắn trước chùa bị vỡ và nước đã cuốn trôi gần hết, nay chỉ còn lại một vài. Trải qua năm tháng thăng trầm, đình Hoành Sơn ngày càng rã rệu, việc trùng tu tôn tạo gặp nhiều khó khăn, một phần do kinh phí “nhỏ giọt,” một phần do việc chạm trổ lại các chi tiết theo kiến trúc của đình cũ rất khó khăn. Nhiều bộ phận kiến trúc đang có nguy cơ sụp đổ, đe dọa sự “sống còn” của di tích. Mái đình bị sạt lở, một số đường hoành, đường chân thủy đã bị gãy, oằn mình dưới lớp rêu phong phủ kín… mỗi lần mưa xuống cả hệ thống cột dầm chìm trong biển nước; hệ thống cột đình hầu như đã bị rỗng phía trong... Một lần, các vị sư thầy ở chùa Cần Linh về đây đã bật khóc khi chứng kiến cảnh đổ nát, hoang tàn của di tích. Thường ngày, đình rất hoang lạnh, chỉ vào dịp rằm, mồng một, lễ, Tết mới có đông người đến thắp hương, cúng bái.
Nhà thờ Nguyễn Thiện Chương (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Làng Hoành Sơn là quê hương của những “ông nghè, ông cử” rạng ngời sử sách: Nguyễn Thiện Chương, Nguyễn Đức Đạt, Tạ Quang Bửu... Nay giữa làng, gần cánh đồng Lòn vẫn còn hiện diện quán văn chỉ Hoành Sơn đồ sộ, mà người dân địa phương gọi nôm na là nhà Thánh, thờ Khổng Tử và các vị Tiền hiền. Dưới hai lối đi có bốn tấm bia đá, khắc chữ Hán hai mặt, đặt đối xứng nhau qua sân lộ thiên, ghi danh gần 20 người con ưu tú của làng đậu đại khoa và trung khoa Hán học (Hoàng giáp, Thám hoa, Tiến sỹ, Cử nhân…). Nơi đây, hàng năm đã từng diễn ra những ngày tế Thánh do Hội Tư văn chủ trì, nhằm tôn vinh đạo Nho và truyền thống hiếu học của làng.
(1). Làng có núi Ngang, nên tên làng gọi là Hoành Sơn…
Làng Hoành Sơn là nơi quần cư của mấy chục dòng họ, trong đó có những họ nổi tiếng như Nguyễn Thiện, Nguyễn Đức, họ Chu, họ Tạ... với nhiều người con đức rộng tài cao, xứng dòng khoa bảng. Nhiều gia đình có “ông đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà”; các thế hệ của làng từng bước tiếp nối truyền thống ngàn xưa “Áo rách đổi lấy võng cờ / Nón mê đổi lấy chữ đồ Vua ban.” Ven đê Nam Trung có nhà thờ họ Nguyễn Thiện, nổi tiếng với Đề hình, Giám sát ngự sử đài, Thiên đô hình bộ, Hữu thị lang Nguyễn Thiện Chương (1451 - 1520); người đã từng tham gia biên soạn luật Hồng Đức - bộ luật hoàn hảo bậc nhất nước ta thời phong kiến; tại nhà thờ, hiện còn bốn sắc phong của các triều đại. Giữa làng có nhà thờ họ Nguyễn Đức, nổi tiếng với Thám hoa Nguyễn Đức Đạt (1825 – 1887), từng làm án sát, tuần vụ các tỉnh và Đốc học Nghệ An; sau về quê mở trường Nam Sơn dạy học. Ông là một danh sư nổi tiếng, có nhiều học trò xuất sắc. Những giáo trình dạy học, những sáng tác của ông là các tác phẩm để đời. Trong đó tiểu biểu có “Nam Sơn tùng thoại” gồm 32 chương, bàn giải về đức độ, học vấn, pháp chế đương thời.
(2) Tứ vị Thánh nương là bốn mẹ con Hoàng hậu nhà Tống (Trung Quốc) trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của giặc Nguyên theo đường biển, bị bão đánh lật thuyền chết đuối, trôi dạt vào Cửa Cờn (Quỳnh Phương - Quỳnh Lưu). Tương truyền khi Vua Trần Anh Tông đi đánh Chiêm Thành, qua đền thờ Tứ vị Cửa Cờn, đêm nằm mộng thấy Tứ vị phù trợ. Thắng trận trở về, vua phong cho thần là Thuợng đẳng Quốc Mẫu vương và Tứ vị Thánh nương. Tứ vị trở thành các vị thần canh giữ biển cả, sông nước, bảo vệ dân lành, nên được nhiều nơi ở nước ta lập đền thờ. Làng Hoành Sơn ở kề sông Lam, luôn luôn bị lũ lụt đe doạ, nên dân làng đã thờ Tứ vị để được phù trợ yên ổn về mặt sông nước.
Nét nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở đình Hoành Sơn, phỏng theo lối kiến trúc thế kỷ XVII -XVIII. Các vì kèo liên kết theo cấu trúc “chồng diêm,” có những bức chạm khắc “lưỡng long chầu nguyệt” rất đẹp. Các cột đình đều có đường kính trên 50cm và là phần chịu lực của toàn bộ kết cấu đình.
Đình Hoành Sơn, là nơi thờ thần và sinh hoạt về kinh tế, văn hóa và tâm linh của nhân dân trong làng và các làng phụ cận. Đình Hoành Sơn, là một công trình tưởng niệm chung tất cả những người đã đóng góp lớn lao cho sự ra đời, trưởng thành, phát triển và phồn thịnh của làng Hoành Sơn nói riêng, nước Việt Nam nói chung.
Đình Hoành Sơn là một trong những đình làng lớn, không chỉ của Nam Đàn, mà còn của cả Nghệ An và cả nước.
Nghệ thuật điêu khắc tại Hoành Sơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Người dân xã Khánh Sơn cho biết, đình Hoành Sơn đã có từ lâu đời, qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng vẫn giữ gần như nguyên vẹn lối kiến trúc ban đầu, vẻ đẹp uy nghi của một ngôi đình cổ, có lối kiến trúc độc đáo bậc nhất xứ Nghệ.
Ngày trước, đình có tên là đình Nam Hoa, rồi Làng Ngang, thuộc tổng Nam Kim. Không ai biết tên đình thay đổi từ bao giờ cũng như không biết chính xác đình được xây dựng năm nào chỉ biết đây là một “báu vật” của làng, là chứng tích qua nhiều biến thiên, thăng trầm của lịch sử.
Theo truyền khẩu thì niên đại của đình có lẽ là khoảng năm 1730, đó là luận ra từ việc so sánh tính đồng dạng của vật thể. Nghĩa là vào năm 1730 tại Hà Nội có một ngôi đình có lối kiến trúc rất giống kết cấu của đình Hoành Sơn, nên họ cho rằng, đình Hoành Sơn được dựng trong thời gian này. Cũng có nhiều nhà sư đến thăm đình nói rằng, Xuân Long tự ở xóm Nam Đông (Khánh Sơn) được xây dựng từ thế kỷ XIII có kiến trúc tương tự đình Hoành Sơn. Vì vậy, đình Hoành Sơn phải được xây dựng vào thế kỷ XIII.
Một ít tài liệu còn khẳng định đình Hoành Sơn được xây vào tháng Chạp năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (2/1763) và đến cuối năm sau (Quý Mùi 1764) thì hoàn thành. Người khởi xướng và chủ sự xây dựng công trình này là Đặng Thạc, cử nhân dưới triều vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) thuộc dòng dõi thế tộc và có uy quyền nhất vùng. Sau khi về hưu, ông huy động tiền của trong dân mua gỗ quý, mời các toán thợ giỏi về xây đình cho làng ngay trên vườn nhà mình.
Tương truyền nhiều toán thợ giỏi nổi tiếng đến cùng nhận làm. Toán thợ Nam Hoa Thượng không được mời thử sức, họ bèn bày mưu cử người thợ giỏi nhất tên Chuẩn giả dạng ăn mày đến chỗ làm đình, xin ngủ lại rồi cố tình đốt cháy một vì kèo ở phía Nam của đình. Đặng Thạc vô cùng tức giận nhưng người ăn mày đã xin được làm lại. Và chỉ trong một thời gian ngắn, người ăn mày đã làm một bức chạm rất đẹp khiến cả hội đồng kỳ mục của làng phải kinh ngạc và thán phục. Sau này nhân dân đã suy tôn Đặng Thạc và người thợ tên Chuẩn thành những vị phúc Thần của làng.
Cột đình mục nát tại Hoành Sơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Cũng có giả thuyết cho rằng, sự ra đời của đình Hoành Sơn gắn liền với một câu chuyện hết sức huyền bí. Vào một năm cách đây đã lâu lắm rồi, nước sông Lam tự nhiên dâng rất cao, dân Hoành Sơn phải chạy lên núi Ngang để tránh lụt. Giữa một đêm trời mưa như trút, sấm chớp ầm ầm, người ta thấy nổi lên những cây gỗ 3 - 4 người ôm không xuể từ thượng nguồn trôi về, dạt vào bãi bồi trước làng. Tiếp đó, có 9 người đàn ông xuất hiện đến bên đống gỗ ra sức cưa, đục, đẽo. Sau ba năm ròng rã, họ làm thành một cái đình đồ sộ và được chạm trổ, trang trí rất công phu, tinh xảo. Xong việc, 9 người đàn ông cũng đi mất mà không ai biết. Có lẽ đây là một trong những nguyên nhân khiến người dân Khánh Sơn tin rằng, đình Hoành Sơn thực sự là chốn linh thiêng, là “báu vật” của làng.
Đình có nhiều đặc điểm khác hẳn với đình cổ nơi khác như: hoa văn trong đình được chạm khắc rất công phu, tinh xảo, được các nghệ sĩ tài hoa thể hiện trên các bộ phận của đình: bát tiên cưỡi hạc đánh cờ, đua thuyền, tứ linh, tứ quý, đại bàng đối xứng từng gian, rồng ổ... thể hiện quan điểm triết lý nhân sinh thấm đẫm tinh thần nhân văn của dân tộc. Cột đình ở gian chính được chạm nổi hình tượng cặp long giáng. Trên mái đình có hình tượng rồng cuộn, hổ quì, nghê chầu; mái lợp ngói âm dương. Giữa lớp ngói âm và ngói dương là một lớp đất sét được nhào trộn với trấu, tạo thành một chất liệu bền, dẻo có tính cách nhiệt tốt. Ngói dương có 5 rãnh chẻ thoát nước; nền và sân đình được lát bằng gạch cẩm trang... Mặc dù trải qua nhiều trận lũ lớn, bom đạn chiến tranh nhưng đến nay đình Hoành Sơn hầu như vẫn giữ được nét kiến trúc ban sơ.
Nguyên thủy, nhân vật được thờ chính trong đình là Uy Minh vương Lý Nhật Quang, con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, một nhân vật văn võ song toàn, tư chất hơn người. Tháng 11 năm 1041, vua Lý Thánh Tông đã xuống chiếu cho Lý Nhật Quang làm Tri châu Nghệ An. Ông đã có nhiều đóng góp lớn lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vùng đất Nghệ An và quốc gia Đại Việt nên được người dân rước vào đình thờ. Ngoài ra, đình còn thờ “Tứ vị Thánh nương.”(2)
Tương truyền, trong đình có hơn 100 pho tượng nhưng vào trận lũ lịch sử năm 1978 và 1988 đã làm con đê chắn trước chùa bị vỡ và nước đã cuốn trôi gần hết, nay chỉ còn lại một vài. Trải qua năm tháng thăng trầm, đình Hoành Sơn ngày càng rã rệu, việc trùng tu tôn tạo gặp nhiều khó khăn, một phần do kinh phí “nhỏ giọt,” một phần do việc chạm trổ lại các chi tiết theo kiến trúc của đình cũ rất khó khăn. Nhiều bộ phận kiến trúc đang có nguy cơ sụp đổ, đe dọa sự “sống còn” của di tích. Mái đình bị sạt lở, một số đường hoành, đường chân thủy đã bị gãy, oằn mình dưới lớp rêu phong phủ kín… mỗi lần mưa xuống cả hệ thống cột dầm chìm trong biển nước; hệ thống cột đình hầu như đã bị rỗng phía trong... Một lần, các vị sư thầy ở chùa Cần Linh về đây đã bật khóc khi chứng kiến cảnh đổ nát, hoang tàn của di tích. Thường ngày, đình rất hoang lạnh, chỉ vào dịp rằm, mồng một, lễ, Tết mới có đông người đến thắp hương, cúng bái.

Nhà thờ Nguyễn Thiện Chương (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Làng Hoành Sơn là quê hương của những “ông nghè, ông cử” rạng ngời sử sách: Nguyễn Thiện Chương, Nguyễn Đức Đạt, Tạ Quang Bửu... Nay giữa làng, gần cánh đồng Lòn vẫn còn hiện diện quán văn chỉ Hoành Sơn đồ sộ, mà người dân địa phương gọi nôm na là nhà Thánh, thờ Khổng Tử và các vị Tiền hiền. Dưới hai lối đi có bốn tấm bia đá, khắc chữ Hán hai mặt, đặt đối xứng nhau qua sân lộ thiên, ghi danh gần 20 người con ưu tú của làng đậu đại khoa và trung khoa Hán học (Hoàng giáp, Thám hoa, Tiến sỹ, Cử nhân…). Nơi đây, hàng năm đã từng diễn ra những ngày tế Thánh do Hội Tư văn chủ trì, nhằm tôn vinh đạo Nho và truyền thống hiếu học của làng.
(1). Làng có núi Ngang, nên tên làng gọi là Hoành Sơn…
Làng Hoành Sơn là nơi quần cư của mấy chục dòng họ, trong đó có những họ nổi tiếng như Nguyễn Thiện, Nguyễn Đức, họ Chu, họ Tạ... với nhiều người con đức rộng tài cao, xứng dòng khoa bảng. Nhiều gia đình có “ông đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà”; các thế hệ của làng từng bước tiếp nối truyền thống ngàn xưa “Áo rách đổi lấy võng cờ / Nón mê đổi lấy chữ đồ Vua ban.” Ven đê Nam Trung có nhà thờ họ Nguyễn Thiện, nổi tiếng với Đề hình, Giám sát ngự sử đài, Thiên đô hình bộ, Hữu thị lang Nguyễn Thiện Chương (1451 - 1520); người đã từng tham gia biên soạn luật Hồng Đức - bộ luật hoàn hảo bậc nhất nước ta thời phong kiến; tại nhà thờ, hiện còn bốn sắc phong của các triều đại. Giữa làng có nhà thờ họ Nguyễn Đức, nổi tiếng với Thám hoa Nguyễn Đức Đạt (1825 – 1887), từng làm án sát, tuần vụ các tỉnh và Đốc học Nghệ An; sau về quê mở trường Nam Sơn dạy học. Ông là một danh sư nổi tiếng, có nhiều học trò xuất sắc. Những giáo trình dạy học, những sáng tác của ông là các tác phẩm để đời. Trong đó tiểu biểu có “Nam Sơn tùng thoại” gồm 32 chương, bàn giải về đức độ, học vấn, pháp chế đương thời.
(2) Tứ vị Thánh nương là bốn mẹ con Hoàng hậu nhà Tống (Trung Quốc) trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của giặc Nguyên theo đường biển, bị bão đánh lật thuyền chết đuối, trôi dạt vào Cửa Cờn (Quỳnh Phương - Quỳnh Lưu). Tương truyền khi Vua Trần Anh Tông đi đánh Chiêm Thành, qua đền thờ Tứ vị Cửa Cờn, đêm nằm mộng thấy Tứ vị phù trợ. Thắng trận trở về, vua phong cho thần là Thuợng đẳng Quốc Mẫu vương và Tứ vị Thánh nương. Tứ vị trở thành các vị thần canh giữ biển cả, sông nước, bảo vệ dân lành, nên được nhiều nơi ở nước ta lập đền thờ. Làng Hoành Sơn ở kề sông Lam, luôn luôn bị lũ lụt đe doạ, nên dân làng đã thờ Tứ vị để được phù trợ yên ổn về mặt sông nước.
Bài và ảnh Trần Công Nhung/Viễn Đông
No comments:
Post a Comment