Tuesday, July 28, 2015

Dục Thúy Sơn

Dục Thúy Sơn, núi Dục Thúy hay núi Thúy như người dân Ninh Bình thường gọi là ngọn núi cao chừng 50m, lên đỉnh hơn 70 bậc cấp, núi nằm ngay ngã ba sông Vân với sông Đáy, giữa hai cây cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Ngày xưa, núi là một vọng gác tiền tiêu bảo vệ thành Hoa Lư. Đặc biệt đây là nơi chứng kiến cuộc chuyển giao chế độ quan trọng trong lịch sử đất nước: từ bến Vân Sàng dưới chân núi, hoàng hậu nhà Đinh Dương Vân Nga đã trao áo Long Bào và chờ đợi ngày về cho tướng quân Lê Hoàn cầm quân đánh đuổi quân xâm lược nhà Tống lần thứ nhất, mở ra chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc.

Từ QL 1A rẽ qua đường Lê Hồng Phong, chỉ mấy phút là thấy núi Dục Thúy bên tay trái, giữa đền Trương Hán Siêu(1) và chùa Non Nước.



Thơ dưới chân núi



Dưới chân núi có quán giải khát bình dân, có người trông xe miễn phí, tuy nhiên không thấy có khách nào. Tôi hỏi người giữ xe “Lên núi có bao nhiêu bậc” – “Chín chục bậc, bác đi thoải mái không mệt đâu.” Tôi gửi xe và lên núi. Ngay chỗ mấy bậc cấp đầu tiên, có 5 bài thơ chữ Hán trên vách đá. Nét chữ phần lớn đã mờ, những người thông thạo Hán tự may ra mới đọc nổi.

Lên đến bậc đá cuối cùng, hai hình ảnh đập ngay vào mắt tôi, hai hình ảnh ngoài nghĩ tưởng của mình: một lô cốt thời Pháp, một tượng bán thân của nhân vật chưa từng nghe trong lịch sử nước nhà.(2) Đỉnh núi bằng phẳng nhiều cây xanh, có một nhà nghinh phong bị rào quanh do quá cũ kỹ, sợ nguy hiểm cho du khách. Một mình tôi dạo chơi trên đỉnh núi. Tiếng là đỉnh núi nhưng đây như một hoa viên đất bằng, có lối đi với cây cảnh bình dân chạy quanh nhà vọng nguyệt. Cảnh thiếu săn sóc trông rời rạc luộm thuộm, thua cả cây trang trí dọc đại lộ. Dục Thúy sơn nổi tiếng là do được nhiều danh nhân đặt chân đến và đã để lại trên vách đá cả trăm bài thơ vịnh cảnh rải rác từ chân núi lên đỉnh, trong các ngóc ngách vách núi phía Nam có nhiều bài thơ khắc nét rõ nét mờ.


                                                                         Lô cốt trên đỉnh núi




Len theo khe đá vào những chỗ hóc hẻm còn có cả những bài thơ chữ Việt, nét chữ nguyệch ngoạc, thiếu đứng đắn bên cạnh những dòng kỷ niệm nham nhở lứa đôi. Tệ hại nhất trong những nơi kín đáo lại là nhà vệ sinh, không ai có can đảm đi tiếp. Tài liệu cho biết có hàng trăm bài thơ trên núi do các danh sĩ trước tác, song cố lắm tôi cũng chỉ chụp được một hai chục bài. Có nhiều bài khắc trên vách núi cheo leo không sao có chỗ đứng để chụp. Một bài thơ khá rõ ràng nằm trong khung hoa văn, chắc là bài của vua Lê Thánh Tông.

Ra mé sườn núi phía Bắc nhìn xuống, thây thấp thoáng thuyền bè trên sông Đáy, phía Nam cũng chỉ thấy một phần thành phố Ninh Bình. Nếu được dọn dẹp cho thông thoáng chung quanh thì từ trên đỉnh Dục Thúy có thể bao quát toàn cảnh đẹp của Ninh Bình và thuyền ghe trên sông Đáy giữa hai cây cầu Ninh Bình và cầu Non Nước.

Xuống chân núi tôi hỏi thăm ai là người trông coi ở đây, em giữ xe chỉ ông già ngồi ở quán nước. Thoạt trông, ông có vẻ lanh lợi và có nhiều nét sắc sảo của lão tướng. Lúc nghe tôi hỏi thăm về những bài thơ trên núi, mắt ông sáng lên mời tôi ngồi rồi nói về núi Dục Thúy, ông đi từ ngày “cách mạng” tháng Tám, người đầu tiên cắm cờ trên núi là người (dựa hơi danh lam) có tượng trên đỉnh. Ông đọc nguyên bản một số thơ của Trương hán Siêu, Lê Thánh Tông, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi. Tôi vừa nghe, hỏi, đồng thời ghi vào máy. Đến một lúc quá nhiều, không thể nào ghi âm nổi, trí nhớ ông già thật tuyệt hảo. Tóc bạc gần hết mà trí nhớ còn tinh tường như vậy, thật hiếm có. Tôi hỏi ngang, ở đây có bán tài liệu như bác vừa trình bày. Ông đứng dậy đi qua đền Trương Hán Siêu, mang về cho tôi một tập “Thơ bia núi Thúy” (3) giá chỉ 20,000 đồng ($1USD). Tôi mừng rơn, vầy thì đỡ công biết bao nhiêu. Trời đã chiều. Tôi mời ông ly nước rồi quay về khách sạn nghỉ ngơi, sáng mai đi núi Cánh Diều sau đó vào Thanh Hóa tìm động Từ Thức.

(Tháng 11 – 2013)
(1). Đền THS trang 84 QHQOK tập 16

(2) Sau 75 nhân dân miền Nam gặp nhiều điều, nhiều hình ảnh, nhiều chuyện (trong thi ca, nhạc họa…) mà mù câm, chẳng hiểu mô tê: anh hùng Lê văn Tám, Phan Đình Giót, Nguyễn văn Trỗi. Những nhân vật này thay thế cho Võ Tánh, Nguyễn Hoàng, Phan Thanh Giản, Gia Long… thì hẳn là bậc anh tài kiệt xuất rồi.

(3) Trong sách “Thơ bia Núi Thúy” do Đinh Giáng sưu tầm và biên dịch (sở thông tin Ninh Bình ấn hành năm 2003). Có tất cả 78 bài, 30 bài được khắc trên núi của nhiều tác giả tên tuổi như Lê Thánh Tông - Lê Hiển Tông – Ngô Thì Sĩ – Ngô Thì Nhậm – Trương Hán Siêu – Nguyễn Khuyến…và 48 bài lưu truyền trong dân gian được sưu tầm, xin ghi một số bài tiêu biểu để độc giả thẩm định.
Vua Lê Thánh Tông
Tam chiết lưu biên Dục Thúy sơn,
Cô cao như tước ngọc phong hàn.
Tầm lai phố tự lăng phong thượng,
Lãm tận hoang bi đái mính hoàn.
Xuyên mật khước nghi thiên địa tiểu,
Đăng cao đốn giác thủy vân khoan.
Sơn quan bất cải hồn như tạc,
Hồi thủ anh hùng nhất mộng gian.
Bản dịch Đinh Giáng
Dục Thúy bên sông khúc chẻ ba,
Núi như én ngọc đứng nguy nga.
Chùa xưa tìm thấy qua luồng gió,
Bia cũ xem xong, bóng xế tà
Hang kín ngỡ rằng trời đất hẹp,
Đỉnh cao thấy rõ nước mây xa.
Núi sông phong cảnh hồn như tạc,
Hoài nhớ anh hùng giấc mộng qua.



                                                         Công viên núi Thúy


Bài thơ Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm

Cảnh Hưng canh dần xuân thanh Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ đề. Trưởng nam Ngô Thì Nhậm phụng lĩnh cung sự tam niên tiền tiên thân hạc giá đăng vân, biểu lưu đề việt thập tam niên nhâm dần di tích thạch tiềm đài phong lục trùng khắc hy cung ký hoài tân:
Vũ trụ dĩ lai
Đạo đức văn chương hoàn tạo hóa.
Yên ba phong nguyệt tại giang sơn.
Đại danh thắng cảnh trường như thử.
Phụ tử chí tình thiên địa gian.

Bản dịch Nguyễn Quí Liêm

Vũ trụ đến nay

Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ đề mùa xuân Canh Dần thời Cảnh Hưng.

Trưởng nam Ngô Thì Nhậm nhận lệnh cung đình đi qua đây là năm Nhâm Dần (khi cha đã giá hạc quy tiên 3 năm trước)

Qua 13 năm thấy chữ của cha đề trên núi rêu đã phủ xanh chữ đã mờ, đã khắc mới lại và cảm xúc viết bài thơ sau:

Đạo đức văn chương trả hóa công,
Gió trăng mây khói gửi non sông,
Đại danh thắng cảnh lưu muôn thuở,
Trời đất cha con một tấm lòng
Nguyễn Khuyến
Chơi núi Non Nước
Chom chỏm trên sông đá một hòn.
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn.
Phơ đầu đá tự đầu bàn cổ,
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch
Hòn châu Thái Phó, tảng rêu tròn.
Trải bao trăng gió xuân già giặn.
Trời dẫu trời già núi vẫn non.
Trương Hán Siêu
Dục Thúy sơn khắc thạch
Sơn sắc chính y y
Du nhân hồ bất quy.
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Nhũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phỏng điếu ngư ky
Bản dịch: Nhóm thơ Lê Quí Đôn

Sắc núi vẫn xanh tươi,
Sao người chẳng lại chơi.
Lòng sông bóng tháp đẹp,
Hang đá cảnh chùa vui.
Phù thế từ nay biệt,
Thân nhàn biết trước sai.
Năm hồ trời đất rộng,
Câu cá muốn tìm nơi.
Thơ xưa vịnh núi Dục Thúy: Phần, từ trang 68 đến trang 151, có 48 bài của nhiều tác giả có tên tuổi như Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, vua Thiệu Trị, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Ngô Thế Vinh…có cả Vô Danh, vịnh núi Dục Thúy luân lưu trong nhân gian mà không có trên núi. Xin ghi lại một số bài tiêu biểu.



                                                                Nhà nghinh phong

Nguyễn Trãi (1380-1442)

Hải khẩu hữu danh san,
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thủy thượng,
Tiên cảnh trụy nhân gian.
Tháp ảnh tram thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban.
Bản dịch Nguyễn Quý Liêm
Danh sơn cửa biển liền kề,
Nơi đây năm trước đi về bao pgen.
Trên sông nảy đóa hoa sen,
Cảnh thiên sa xuống giữa miền trần ai.
Tháp kia tram ngọc xánh cài,
Sông kia trắng rọi sáng ngời tấc mây.
Nhớ Trương Thiếu Bảo lên đây,
Bia xanh nét chữ nở đầy hoa rêu.
Lê Quý Đôn

Nhất phong diệt tận cổ kim nhân’
Kim cổ vô cùng vân thủy thân.
Thăng phú bi vân đà cảm khái,
Thần Hoàng thi cú tối tiên tân.
Thái lãng càn khôn bàng bối tạ,
Thuộc xa tram bút tảo thanh trần.
Bản dịch: Xuân Giáng

Núi này duyệt đủ khách xưa nay,
Kim cổ bao người lụy nước mây.
Thăng phủ bia văn hoài cảm mãi,
Thuần Hoàng thi tứ mới mà hay.
Biển xô sóng trắng lên sườn núi,
Gió vượt đồng xuân tới bãi cây.
Vũ trụ thanh bình bầu bạn đủ,
Xe tram bút quét bụi trần bay.



                                                                   Thơ vua Lê Thánh Tông


Vua Thiệu Trị (1807-1847)

Tẫn vi xuyên cốc, mẫu khâu lăng,
Nam quốc phiên bằng hổ cứ,
Bắc môn tỏa thược tráng long hưng.
Không giao quảng đại cung đề thưởng,
Chuẩn nghĩ biên phương tráng thế tăng.
Danh thắng phất sùng tu địa lợi,
Vĩnh ninh cương ngữ bảo minh trừng.
Bản dịch: Nhân Phủ

Khe hang gò đống hiểm muôn trùng,
Núi vút từng mây, nước suốt trong.
Phiên dậu nước nNam nhờ thế cọp,
Khóa then phía Bắc day oai rồng.
Những từ thuở trước nơi đế thưởng,
Ai rõ ngoài biến thế vẫy vùng.
Danh thắng đã dành, thêm địa lợi,
Vững vàng bờ cõi, rạng non sông.

Trần Công Nhung

Monday, July 27, 2015

Động Từ Thức


Đường đi Động Từ Thức
 
 
Thuở học trò hẳn ai cũng thuộc bài hát Tiếng Sáo Thiên Thai của nhạc sĩ Văn Cao. Nhân dịp chơi thuyền trên sông Hương, nhạc sĩ nghe tiếng hát đâu đó khiến ông nhớ cảnh Lưu Thần Nguyễn Triệu lạc Thiên Thai. Bài nhạc phác họa cuộc sống thần tiên mộng ảo của hai chàng trai đi hái thuốc vào tiết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch):
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng,
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên.
Đào Nguyên hay Thiên Thai là tên một hòn núi thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết (Triết) Giang bên Tàu. Đời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh Bình (58 sau DL) có hai chàng nho sĩ tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu quê đất Diêm Khê. Nhân tiết Đoan Ngọ, vào núi Thiên Thai hái thuốc chữa bệnh, nhưng chẳng may bị lạc, không tìm được lối về. Lang thang trong núi gần tháng, lương thực đã cạn, phải ăn những quả đào hai bên suối, và uống nước khe. Một hôm Lưu, Nguyễn thấy có những hột cơm vừng và rau tươi trôi theo suối nên đoán chắc có người ở đâu đây. Hai người bèn lần mò theo dòng suối đi tìm, bất ngờ gặp một vùng cây cỏ xanh tươi, phong cảnh thơ mộng đẹp đẽ. Đương ngẩn ngơ ngắm cảnh, bỗng nghe giọng thánh thót: “Lưu, Nguyễn hai chàng sao đến chậm thế!”



Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai



Nghe gọi đích danh mình, Lưu Nguyễn rất ngạc nhiên, vừa lúc có hai cô gái rẽ hoa bước ra. Quả là đôi giai nhân tuyệt thế. Như quen biết nhau từ xưa, hai nàng ân cần mời hai chàng vào động, và xưng tên là Ngọc Kiều và Giáng Tiên. Lưu Thần và Nguyễn Triệu mừng rỡ theo ngay. Vào động nhìn thấy chung quanh trang hoàng lộng lẫy không ngờ, lại có mùi hương thoang thoảng. Đến bữa cơm, hai nàng dọn cơm vừng và các món cao lương mỹ vị mà xưa nay hai người chưa từng được nếm qua. Cơm nước xong, một đoàn mỹ nữ mang vào mâm đào chín và rượu ngọt, rồi múa hát dâng rượu, chúc mừng: "Chúng em xin có lời mừng tân lang và tân giai nhân nên duyên cầm sắt." Nói xong, họ lại họp nhau múa hát trong không khí tưng bừng rực rỡ xiêm y. Hai chàng Lưu, Nguyễn say mê nghĩ mình quá hạnh phúc gặp cảnh Tiên.




                                                        Từ Thức trở về


Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
(Tiếng Sáo Thiên Thai nhạc Văn Cao)
Đến khuya, tiệc tàn khách về. Ngọc Kiều và Giáng Tiên mời hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng nâng ly chúc tụng nhau đêm tân hôn mặn nồng.

Say mê cảnh đẹp, đầm ấm trong tình vợ chồng, Lưu Nguyễn hầu như quên hẳn cảnh trần gian. Nơi đây bốn mùa tiết trời ấm áp đâu đâu cũng hoa bướm muôn màu nhởn nhơ bay lượn, chim hót véo von, trời trong gió mát đượm mùi hương phảng phất quanh mình.
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Nhưng, hai năm trôi qua, cảnh dù đẹp, vợ dù xinh, đời sống thật thần tiên cũng không sao xóa được nỗi nhớ quê nhà, nên hai chàng thỏ thẻ với vợ xin về thăm, hẹn thời gian ngắn sẽ quay trở lại. Hai nàng buồn bã can ngăn. Nhưng lòng nhớ cố hương ray rứt đêm ngày, Lưu Nguyễn cứ năn nỉ mãi. Biết không cầm được chồng, hai nàng ngậm ngùi, thở dài:

- Nhờ hồng phúc kiếp trước mà hai chàng được cùng chị em chúng tôi kết duyên chồng vợ, kẻ tiên người tục hòa hợp chốn Thiên Thai. Tưởng rằng trăm ngàn năm giữ một chữ đồng, nào ngờ hai chàng căn trần chưa dứt nên mới hai năm đã buồn nhớ đòi về quê cũ. Hạ giới trần tục, kiếp người ngắn ngủi, hai chàng có về lại trần gian thì cảnh cũ người xưa cũng không còn như trước. Chia ly ai chẳng đau lòng, nhưng đã nghiệp chướng làm sao thoát khỏi.


                                                             Động Từ Thức cửa vào hang 2


Bia cửa Thần Phù




Thế rồi hai nàng tiễn chân Lưu Nguyễn ra khỏi động, bịn rịn đưa xuống tận chân núi. Ngoài xa khói lam phủ nóc nhà ai, hai chàng loanh quanh một lúc rồi ra khỏi núi Thiên Thai, về ngay quê cũ. Cây đa cổ thụ đầu làng còn kia nhưng cảnh vật đã khác hẳn. Làng xóm toàn người xa lạ, không ai có thể nhận ra Lưu, Nguyễn là người quen ngày trước. Cả hai vô cùng ngạc nhiên, mới chỉ hai năm, sao cảnh vật lại đổi thay một cách lạ kỳ thế này. Lối cũ không còn, cây đa đầu làng giờ đã quá già cỗi, cành lá úa vàng chứng tỏ thời gian qua lâu lắm rồi. Bỗng gặp một cụ già gần trăm tuổi, hai chàng Lưu, Nguyễn hỏi thăm chuyện nhà. Cụ già bèn kể lại cách nay 700 năm, cụ có một ông tổ bảy đời tên Nguyễn Triệu, nhân tiết Đoan Ngọ cùng bạn là Lưu Thần vào núi hái thuốc rồi biệt tích. Bấy giờ Lưu Thần, Nguyễn Triệu mới biết một ngày trên Tiên giới bằng một năm ở trần gian. Cả hai bơ vơ, hối tiếc bèn rủ nhau quay lại động Đào Nguyên. Nhưng còn thấy đâu cảnh bồng lai Tiên giới ngày xưa…
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao ?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.
Vòng vo, quanh quẩn... cuối cùng hai chàng lại lủi thủi trở về âm thầm sống nơi quê cũ cho đến đời Võ Đế (265- 275), hai chàng mới bỏ đi, chẳng biết đi đâu, không ai còn gặp nữa.

Tương tự chuyện hai chàng nho sĩ đời Hán Minh Đế, Việt Nam có chuyện ông huyện Từ Thức người Tống Sơn, nay là Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá làm tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Nhân buổi dự hội Mẫu Đơn, gặp một cô gái trẻ đẹp bị nhà chùa bắt trói vì làm gãy hoa. Huyện Từ Thức động lòng cởi áo gấm chuộc cho thiếu nữ ra về.

Thời gian sau để tang mẹ, chàng từ quan, ngao du sơn thủy. Một lần ra cửa biển Thần Phù, Hà Tĩnh (1), gặp một hang động, ông huyện Tiên Du tò mò đi sâu vào xem, càng vào sâu càng hấp dẫn bởi cảnh đẹp lộng lẫy chàng chưa từng thấy bao giờ. Huyện Thức mê say theo cảnh, đến một lúc quay lại thì không thấy đâu là đường về. Ngay lúc ấy, một bà lão tóc bạc phơ, xiêm y như một bà Tiên. Từ Thức rất đỗi ngạc nhiên, chưa biết ăn nói thế nào thì bà lão đã mở lời: “Vui mừng đón chàng trai đến chơi. Vào mùa xuân năm trước, trong ngày hội mẫu đơn ở chùa Phật Tích, con gái ta lỡ tay làm gãy một bông hoa bị nhà chùa giữ lại. Chàng lòng thương cởi áo gấm chuộc lỗi con gái ta là Giáng Hương. Ơn ấy ta và con gái mãi không quên. Nay chàng đã đến đây xin mời lưu lại nơi này, ta sẽ gả Giáng Hương cho chàng làm vợ.”



                                                          Lưu Nguyễn và tiên nữ




Bà lão vừa dứt lời, trong động tiếng ca hát chào mừng hòa với tiếng nhạc du dương réo rắt truyền đi khắp nơi. Đồng thời từ trên cao hoa trắng rơi như tuyết trong ánh sáng huyền ảo của cảnh giới Bồng Lai. Thế rồi ngày tháng qua, Từ Thức ngất ngây với đời sống Tiên cảnh, không còn nhớ chuyện trần gian nơi chàng sống với bà con họ hàng bao năm qua. Nhưng, một hôm Từ Thức bỗng chợt nhớ quê nhà, nhớ bà con ruột thịt, nhớ cây đa đầu làng, nhớ cánh đồng bát ngát màu xanh, nhớ tiếng gà canh khuya, nhớ giọng hò trên sông vắng. …Bao nhiêu hình ảnh âm thanh của quá khứ ập về réo gọi, làm cho chàng ngồi đứng không yên…Từ Thức đành tỉ tê xin Giáng Hương cho về thăm quê một chuyến. Chàng nghĩ cũng không mất mát gì, cùng lắm năm ba hôm rồi trở lại. Giáng Hương buồn rầu không nói, vì biết có nói Từ Thức cũng không sao kềm được nỗi nhớ nhà đang đốt cháy lòng chàng. Giáng Hương viết sẵn mấy hàng từ biệt cài vào áo chồng, dặn về đến quê hãy đọc. Nàng tiễn chồng ra cửa động, kết xe mây cho chàng về hạ giới.

Đến quê nhà, Từ Thức thấy tất cả đều đổi thay, cây đa trước đình làng nay đã hoàn toàn biến đổi, rễ nó ăn trùm lên tam quan, đình làng không biết nay đâu chỉ còn trơ lại đám đất hoang với tam quan đổ nát rêu phong. Từ Thức cố nhớ "mình mới xa nhà có nửa năm mà sao cảnh nay khác quá vậy. Chàng tìm những người thân quen cũ nhưng tuyệt nhiên không thấy ai, ai cũng nhận ra chàng.

Cuối cùng gặp một lão ông râu tóc bạc phơ, hỏi ra mới biết đó là cháu nội của mình.

Từ Thức buồn bã, "Hóa ra mình sống với Giáng Hương mới nửa năm mà trần thế đã gần 200 năm." Chàng sực nhớ lấy thư vợ ra đọc, thì than ôi... không bao giờ có thể trở lại cõi Tiên với vợ được nữa, bởi hạnh phúc chỉ đến một lần.
Kết hoan hỷ (ư) vân trung, tiên duyên dỹ đoạn
Phỏng Tiên sơn (ư) hải thượng, hậu hội vô nhân
(Kết bạn loan trong mây, duyên xưa đã dứt
Tìm núi Tiên trên biển, dịp khác không còn.)
Từ Thức buồn rầu lang thang rày đây mai đó, cuối cùng trôi dạt về đâu chẳng ai biết.

Chuyện Thần Tiên xứ nào cũng có và có nhiều. Ngày nay khoa học tiến bộ tới đâu cũng khó mà tìm lại Bồng Lai Tiên Cảnh. Dầu vậy tôi vẫn có chương trình tìm động Từ Thức trên đường từ Hà Nội vào Nam năm nay. Giáng Hương Từ Thức nay không còn, nhưng chắc chắn động Từ Thức nơi giao duyên “Tiên tục” vẫn còn đó, ở làng Nga Thiện, huyện Nga Sơn Thanh Hóa.
Qua khỏi đèo Tam Điệp vào địa phận Bỉm Sơn, biết đã gần đường đi động Từ Thức, thấy có ông già bán hoa quả, tôi dừng xe hỏi thăm, ông bảo “ngang qua chỗ chợ, rẽ trái cứ thế đi thẳng.”
Thấy ông lão vui tính tôi hỏi thêm một câu về sự tích động, ông lại kể một chi tiết chưa từng nghe bao giờ, “Từ Thức ở làng Nga Sơn một hôm lên núi chơi gặp Tiên, thấy cảnh đẹp mê rồi ở luôn một năm sau nhớ nhà mới tìm đường về làng cũ. Từ Thức đi khắp nơi hỏi thăm bà con dòng họ, ai cũng lắc đầu cho là người điên, riêng có một lão ông đầu tóc bạc trắng nói, “Cách nay mấy trăm năm có một người đi vào núi rồi lạc mất chẳng thấy về, đúng sai chẳng ai biết.” Từ Thức vừa giận người trêu chọc vừa buồn không tìm ra họ hàng, bèn lấy bình rượu Tiên mang theo, rưới suốt đường trở lại động. Từ đó đất đai cả vùng cằn cỗi, dân nghèo đói không làm nên được chuyện gì.”



                                                                      Núi Nga Sơn



Đến một ngã ba rẽ về hướng Đông, ai cũng bảo “Chạy thẳng là đến động Từ Thức,” chỉ mấy phút thấy trước mặt có núi, mừng thầm “Vầy thì dư thì giờ đi Gia Miêu.” Tới nơi lại đường cụt, phải quay lui ngã tư rẽ trái. Lúc qua một cầu nhỏ gặp ngã ba có bảng chỉ trái đi Nga Sơn 12km, rẽ phải đi làng Đoài. Vậy là đường còn xa, còn qua nhiều ngã ba, ngã tư, thế mà ai cũng bảo “chạy thẳng là đến.” Cách chỉ đường của người mình lúc nào cũng đơn giản dễ như thấy trước mặt. Lần về Hải Phòng tìm cây đa 13 gốc (1), ai cũng bảo 500m là tới, thực sự có đến 6 – 7 lần 500m.

                                                          Nhũ non trong Động Từ Thức


Ra khỏi vùng cư dân là qua cánh đồng rộng mênh mông trơ gốc rạ. Cuối cùng tôi cũng tìm được đường về xã Nga Thiện đi động Từ Thức. Đời sống dân cư vùng này vắng lặng có vẻ nghèo nàn như lời ông già đèo Tam Điệp. Đường sá đang đổ cát đá, sửa sang. Đi hết làng lại gặp một cánh đồng lúa vừa mới gặt. Trước mặt là dãy núi dài nơi có động Từ Thức.
Theo sách vở mô tả, động Từ Thức còn gọi là Động Bích Đào, một trong những động đẹp nổi tiếng nhiều nhũ đá, được gắn liền với truyền thuyết Từ Thức gặp Tiên. Động nằm trên sườn một ngọn núi thuộc xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Từ rìa làng Nga Thiện nhìn dãy núi trước mặt, không có dấu hiệu gì là hang động, núi không có dạng núi vôi như ở Ninh Bình (Tam Cốc) hay ở chùa Hương (Hà Tây), mà dạng núi đá miền Trung, chân núi lài ra đồng ruộng. Vài ba con bò, năm bảy con trâu, điểm tí màu sắc cho cảnh đỡ tẻ nhạt.
Vào đến chân núi mới thấy thấp thoáng vài người trong một lán trại, tôi hơi nghi nghi, một thắng tích nổi tiếng mà hoang vắng vậy sao. Một chiếc cầu nhỏ bắc qua khe nước cạn, đến khu rừng cây, tôi dừng xe quan sát, vẫn không một bóng du khách. Một tấm bảng viết theo lối thư pháp (quái đản), vôi vữa mốc meo, nhức cả mắt mới đọc được (2), “Động Thừ Thức kính chào quý khách.” Không rõ huyện Thức ngày trước có “văn hoa bay bướm” kiểu quê mùa rẻ tiền vậy không. Từ bảng “chào quí khách” vào chân núi hơn trăm mét, đây là một công viên hoang dã, cây rừng sơn trắng gốc (?), đường mòn hai ba lối, một tấm bảng nhỏ vẽ “sơ đồ động Từ Thức” đóng trên gốc cây (4 mũi tên đi 4 ngã).
Đường lên động ngay trước mặt, cửa động cao trên trăm bậc đá xây, có tay vịn, dễ đi. Vừa lên mươi bậc thì bị nhiều giây leo to bằng bắp chân từ trên cây cao thòng xuống ngoằn ngoèo chắn lối, du khách phải khom người đi qua như một cách vái chào.


                                                       Từ Thức trong động Bích Đào


Đến cửa hang, không thấy ai, cảnh im phăng phắc, bên trái có miếu Sơn Thần nho nhỏ, trước miếu có một rổ tre đựng mấy chiếc đèn pin, mươi đôi dép nhựa bày trên thềm đá. Đèn cho khách thuê vào động, còn dép nhựa? Trước cửa động có một bia đá khắc bài thơ chữ Hán do Lê Quí Đôn cảm tác khi thăm động vào thế kỷ XVII (3). Trong động, tối đen, khí lạnh toát ra thấy cũng ơn ớn. Tôi quay lui lấy một chiếc đèn pin để xuống hang thì nghe có tiếng người đàn bà kêu dưới chân núi “để tôi bật đèn đã.”
Cửa hang thấp, vừa tầm người đi. Trong động đã có ánh đèn vàng mờ mờ. Xuống chừng 3m là khu “tiền sảnh,” trần động cao lối 5m, vào sâu thêm vòm động cao hơn tí, những cột nhũ nối từ nóc xuống nền như để chống đỡ trần nhà. Động các nơi như Phong Nha, Ngũ Hành ít ra cũng cao 15-20m.
Đứng một lúc lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt tí tách rõ mồn một, hơi lạnh tăng dần. Tiếng nước rơi trên nền đá, trên những chiếc dĩa hứng rải rác đó đây tạo thành âm giai cao độ khác nhau nghe như một thứ âm nhạc cõi nào. Tôi cẩn thận từng bước, dưới chân ẩm ướt có thể trợt té. Nhũ trong động Từ Thức ở “tiền sảnh” có hơi khác với động các nơi, không có những khối nhũ tượng hình rõ rệt, “Đạo sĩ, Tiên Ông, Cung điện,” …v.v. nhưng có những nụ nhũ non nhô cao chừng vài phân. Biết mấy trăm năm mới có được một cột nhũ như thế kia. Phần lớn các khối nhũ là dạng nhũ khía chảy dài từ nóc xuống nền, đặc biệt một khối nhũ đứng rời có hình một quả đào nên Động Từ Thức còn có tên động Bích Đào. Nhìn quả “Đào Tiên,” tâm hồn bỗng nhẹ lâng lâng, và tưởng chừng có tiếng ai hát văng vẳng:
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy Tiên theo đàn
Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
(Tiếng sáo Thiên Thai nhạc Văn Cao)

Vào sâu thêm, góc bên trái mấy mảng nhũ buông xuống lưng chừng như màn che ngăn phòng. Một vài khối nhũ riêng lẻ lớn nhỏ không đều, cấu tạo khác nhau, giàu tưởng tượng cũng chỉ thấy dạng voi xù thời tiền sử, hay những tháp nhọn trên nóc đền đài xứ Thái, Cambodia... chứ không như nhiều “nhà văn” mô tả, “Này đây Đụn gạo, kho tiền, này kia bồn muối, vườn cây trái có đầy đủ các loại, rồi mâm xôi, thủ lợn, rồi phường bát âm, gõ vào tạo nên một thứ âm thanh thú vị. Rồi bàn cờ tiên, một bàn đá phẳng lỳ có đầy đủ các quân cờ, đường kẻ….” Một nơi được gọi là chốn Thiên Thai mộng ảo mà có cả “mâm xôi, thủ lợn” của bợm nhậu thì trần tục quá! Ở đây cũng nhiều cột nhũ bị cắt ngang như nhũ gần cửa động.
Qua một khe cửa hẹp là vào động trong, nhũ đá đa dạng và nhiều hơn, tập trung từng khoảnh, người xem dễ ghi nhận, ảnh chụp cô đọng hơn. Động Từ Thức là một hệ thống nhiều động ăn sâu nhưng cửa động càng lúc càng hẹp càng tối và nhiều vũng nước đọng. Chưa thấy công trình khảo cổ nào định tuổi của động Từ Thức, theo tôi, động Từ Thức còn rất trẻ, nhũ còn tiếp tục nhỏ xuống ngày đêm để tạo thêm hình tượng mới. Những động khác như Tiên Sơn (động khô) Phong Nha, Thiên Đường (Quảng Bình), hang Đầu Gỗ (Quảng Ninh) (4)... đã được định hình từ hàng nghìn năm.


                                                                   Đường lên Động Từ Thức


Với mắt bình thường, cố gắng lắm cũng chỉ ghi nhận đôi phần do hệ thống soi sáng có tính tạm bợ, vài ba bóng đèn watt thấp rời rạc, không đủ soi đường. Vào đến động hai đã cảm thấy ngài ngại. Phải chi có vài người cùng đi thì yên tâm “thám hiểm.” Như có một nguyên tắc chung trong quá trình hình thành hang động, càng vào sâu các hình tượng nhũ càng đa dạng, càng lạ chứ không đơn giản mộc mạc như bên ngoài. Càng vào sâu càng âm u càng lạnh, càng nhiều ngóc ngách, nhiều bóng tối, tự nhiên người đâm ra lo nghĩ vẩn vơ.
Tôi dừng lại thầm tính toán, nên đi tiếp hay lui, đầu óc lại liên tưởng những tai nạn hầm mõ, chuyện bất trắc núi rừng, hơn nữa có mỗi một mình, nhỡ điện cúp bất thần hay đèn pin hỏng thì xoay sở thế nào. Lúc ấy mà được làm Từ Thức thì may ra... Theo sử sách ghi thì cuối động còn có đường lên trời, có đường xuống âm phủ. Đường lên trời là những bậc đá đều nhau, là đường Từ Thức Giáng Hương cùng các nàng Tiên dạo chơi ngoạn cảnh. Đường xuống âm phủ là một cửa hang ăn sâu xuống lòng núi với nhiều bậc đá chênh vênh, ẩm ướt, nhiều ngõ ngách tối om om, người bạo dạn mấy cũng không dám xuống một mình. Nhớ lần đi hang Cắc Cớ (5) cũng đầy khó khăn, cũng đường xuống "âm phủ, đường lên trời" nhưng đông người đi, ánh sáng trong động không tù mù như đây.



                                                                 “Tiền sảnh" Động Từ Thức


Đang lúc tiến thối lưỡng nan thì bỗng đèn vụt tắt, tất cả tối đen, tôi hơi hoảng, vội bật đèn pin hươ hươ, cảm thấy cột sống lạnh ngắt, mắt hoa, người muốn xiêu xiêu. Cố định thần, tôi hít thở thật sâu, cố trấn an "chẳng việc gì phải sợ..." Lúc mới vào động, lòng đã nghi ngại chuyện điện đóm xứ mình, ai ngờ lại xẩy ra thật. Bỗng có tiếng ầm ầm như động đất, vừa mới hồi tĩnh lại hoảng hốt run người. Tự nhiên cúp điện lại có tiếng động. Hãi quá. Hay do hoang tưởng. Trống ngực đập liên hồi, chân muốn bỏ chạy, nhưng chạy làm sao trong bóng tối chập chờn bao nhiêu hình thù quái dị, va đầu vào đá là họa đến ngay. Cố từng bước lui dần, đến khi thấy ánh sáng từ cửa động rọi vào tôi thở phào nhẹ nhõm. Từ cửa động nhìn xuống cánh đồng rạ vàng, nắng ban mai lung qua rừng cây xanh lá, chiếc cầu nho nhỏ qua khe, tiếng chí chí của mấy con chim sâu...tôi dần trở lại bình thường và tâm tư như đang nối tiếp "tiếng sáo Thiên Thai":
Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên
Người đàn bà ngồi chờ sẵn trước cưa động để thu tiền thuê đèn. Tôi hỏi với vẻ bình thản:
- Những đôi dép để làm gì hả bà?
- Để cho các cô đi guốc cao gót thuê.
- Sao không thấy khách thăm động nhỉ?
- Tết mới đông, người đi chen chân, ngày thường ít thôi.
- Ngôi đền dưới kia thờ ai vậy bà?
- Đền Mẫu, linh lắm ông à, khách đến cúng hàng ngày.
Ghé qua đền Mẫu, trong chánh điện đang có người cầu xin gì đó. Một bà làm “dịch vụ,” đọc như máy bài cúng Mẫu kể tên họ thân chủ và thay mặt thân chủ xin Thánh ban cho những điều mong ước.
Đồng hồ đã quá 9 giờ, còn một nơi phải đến: khu di tích Gia Miêu.
Động Bích Đào đã từng là nơi hấp dẫn đối với tao nhân mặc khách. Ngày xưa nhiều danh sĩ tiếng tăm như: Lê Quý Đôn, Trịnh Sâm, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền, … đã đến đây và lưu lại nhiều áng văn thơ ca ngợi nơi này.
Một đất nước an bình, có một nền giáo dục nhân bản, một xã hội đạo đức mẫu mực thì không cần hô hào học tập này nọ, không cần khẩu hiệu kêu gọi văn hóa văn minh, con người đương nhiên có lễ nghĩa trí tín. Ngày nay ai cũng thừa nhận mọi thứ đều xuống cấp, suy sụp sa đọa. “Cơ quan chức năng,” “báo đài,” gia đình, học đường, người người khắp nơi kêu gào “cứu nguy” …Nhưng, xem ra vô vọng ai cứu đây! Thật sự rất buồn khi đến thăm các di tích danh lam (được nhà nước công nhận) thấy toàn chuyện “vô văn hóa”: viết vẽ bậy bạ, phá phách chôm chỉa…mà không một ai chịu trách nhiệm, chỉ biết bán vé thu tiền. Đến bao giờ người Việt mới nhận ra được trắng đen, tốt xấu, thiện ác…để không bị thiên hạ cười chê (6).
Tháng 11 - 2013



                                                                    Cửa Động Từ Thức
(1) Cây đa 13 gốc trang 144 QHQOK tập 10
(2) Phải mất hơn một tiếng đồng hồ “quét dọn” mới đọc được lời chào. Thực lòng mà nói, tôi không hiểu tại sao con người xhcn lại hay thích lối “văn chương” “văn hóa” kỳ cục như vậy. Có phải sân khấu đâu mà vẽ vời câu khách. Rõ ràng ngay thẳng chính xác là yếu tố cần đối với di tích danh lam.
(3) Bài thơ chữ Hán của Lê Quí Đôn làm từ thế kỷ 18
Hải Thượng quần Tiên sự diểu mang
Bích Đào động khẩu thái hoang lương
Càn khôn nhất kệ cùng Từ Thức
Vân thủy song nga lão Giáng Hương
Thạch cổ hữu phong sao hữu nhật
Sa diêm vô vị niết thu sương
Thế nhân khổ tác Thiên Thai Mộng
Thùy thức Thiên Thai diệc hý trường
Dịch nghĩa
Bầy quần Tiên chơi trên cửa biển
Bích Đào cửa động cảnh hoang vu
Đất trời in mờ nét Giáng Hương
Trống đá dội vang rung ánh nhật
Muối còn phai nhạt quấn màn sương
Người đời khổ vì mơ Tiên cảnh
Ai biết Thiên Thai một hý trường

Trần Công Nhung

Điện Biên Phủ



Bàn làm việc


Bia Piroth


Hào tiếp viện


Thiếu nữ Thái


Hầm tướng Decastrie
 
Những ai đã sống qua các thời kỳ chiến tranh, chắc không còn lạ gì với cái tên Điện Biên Phủ. Thế giới, vào những ngày tháng đầu năm 54, cũng đã quá căng thẳng âu lo về một trận chiến ở đất nước nhỏ bé xa xôi này. Thuở ấy tôi còn là tuổi học trò, ăn chưa no, lo chưa tới, mỗi lần nghe nói đến: Na Sàn, Mường Thanh, Nậm Rốm... cứ tưởng như nơi rừng rú mọi rợ xa xôi, nhưng tin chiến sự hàng ngày dội về qua bao chí, radio, khiến cho tôi lúc ấy cũng hiểu rằng đất nước đang trải qua một cuộc chiến kinh hoàng giữa Pháp và quân đội Việt Minh.

Rồi mau chóng, một trang sử lật qua, quê hương chưa lành vết thương chiến tranh lại phải chia cắt “Bên ni bên nớ,” tôi tưởng không còn cơ hội để biết Hà Nội, Điện Biên, Đồ Sơn, Tam Đảo...

Ngày tháng qua mau, thế sự thay đổi, những điều tưởng khó hóa dễ, xa hóa gần. “Về nhà em, có hai đoạn đường dài, tuy xa mà gần tuy gần mà xa,” lời một bài hát tự nhiên cho tôi ý nghĩ “Mọi chuyện ở đời không có gì bị đóng khung mãi mãi.” Tất cả do tâm cầu. Những ước mơ của tôi dần dần hiện thành sự thực. Ngày nay không có gì cấm cản tôi tìm thăm mọi miền quê hương. Điện Biên có trái đường nhưng không phải khó đi. Tôi thăm dò, nhiều người khuyên đi đường bộ, tuy mất một ngày nhưng bù lại có nhiều cảnh đẹp, nhất là khi đi qua vùng đồi núi Mộc Châu.

Bến xe Giáp Bát mỗi ngày có chuyến lên Điện Biên từ 4 giờ sáng, phải vào bến ngủ trọ. Dự tính thế, nhưng đồng hành có ông bạn nghiên cứu sử, lại muốn đi máy bay, ông ngại khó và mất thì giờ. “Tùy thuận chúng sanh,” tôi không phản đối, có dịp từ trên không nhìn xuống lòng chảo Điện Biên cũng thú. Vé máy bay đi về chỉ mấy trăm nghìn đồng. Mỗi ngày có 3 chuyến bay, chứng tỏ dân mình bây gờ đi lại cũng “hào hoa phong nhã” như ai.

Sau 1 giờ bay, Điện Biên Phủ đã hiện ra dưới tầm mắt. Máy bay lượn một vòng, thả mình từ từ qua mấy lớp mây. Một cánh đồng lúa vàng, một con sông lớn bò ngòng ngoèo nước đục ngàu, một con đường thẳng tắp chạy qua thành phố nhà cửa lố nhố mái ngói mái tôn. Rải rác đó đây trên cánh đồng vàng, những đụn khói trắng lên cao, chạy dài. Máy bay càng xuống thấp hình ảnh càng rõ hơn, cạnh những đám khói là từng tốp thợ gặt. Cánh đồng lòng chảo rộng chừng hai mươi cây số, núi bao quanh. Sân bay Điện Biên nằm bên rìa thành phố, một đường băng một dãy nhà trạm, một tháp điều khiển không lưu, đơn sơ bình dị.

Khách đến khách đi không nhộn nhịp như Tân Sơn Nhất hay Nội Bài. Nhờ liên lạc trước nên tôi đã nhận ra ngay 2 cô gái đến đón. Hành trang gọn nhẹ, mỗi người mỗi xe, chúng tôi được đưa về nhà trọ cách phi trường vài cây số.

Ngày 7 tháng 5, 2004, kỷ niệm 50 năm Điện Biên Phủ, nghe nói lượng du khách tràn ngập về thành phố này, tạo nên cơn sốt khách sạn, chính quyền địa phương vội ra chỉ thị khuyến cáo dân chúng tùy nghi tiếp khách. Vậy là nhà ở trở thành phòng trọ, guest house... Nay lễ lạc đã qua nhưng “tinh thần hiếu khách” vẫn còn, nên chuyện người đến Điện Biên, muốn ở đâu tùy ý, chi phí thỏa thuận giữa hai bên. Dù nhà dân, tiền phòng cũng tương đương khách sạn. Một hai bữa tốn kém chút đỉnh chẳng sao.

Chủ nhà là người bà con với gia đình tôi quen ở Hà Nội, nên việc tiếp đón khá tươm tất, trà nước, chuyện vãn ra điều thư thả. Tôi thì lúc nào cũng như lính trận, đổ bộ là nổ súng, không để mất thời gian. Nhìn đồng hồ mới hơn 2 giờ, tôi “triển khai” ngay kế hoạch:

- Anh cho biết những điểm chúng tôi cần phải đi. Nghe nói trận địa Điện Biên còn nhiều di tích?

- Vâng, nhưng ngày nay nhiều nơi đã trở thành khu dân cư. Trong dân chúng vẫn thường nghe:

Mường Thanh Hồng Cúm Him Lam,
Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng.

Đó là những cứ điểm trọng yếu của quân Pháp mà quân ta dồn toàn lực đột phá vào những ngày đầu của trận chiến, nay không còn dấu tích nữa. Chỉ còn hầm “Đờ Cát,” đồi A 1, nghĩa trang, nhà Bảo Tàng, là những điểm quanh đây trong vòng vài cây số. Hầm Tướng Giáp xa trên 40km, phải ngày mai mới đi kịp.

Cạn chén trà tôi giục mọi người lên đường, “Kiếm thêm một xe ôm, chúng ta tận dụng chiều hôm nay. Theo lộ trình sao cho thuận để đỡ mất thì giờ.”

Mọi ngả đường đều qui về Chợ Trung Tâm, đây là trung tâm sinh hoạt mua bán của Điện Biên. Khu phố sáng sủa, nhà cửa như mới xây, xe cộ thưa thớt, không có cảnh chen lấn nhấn còi điếc tai như ở Hà Nội.

Qua chợ, vòng ra đường Nguyễn Đăng Ninh, có lối rẽ trái đi hầm De Castries, cách chừng cây số, trên đường vào xã Thanh Luông. Nhà bán vé nằm ngay cổng, hầm ở góc vườn bên trái. Trước cổng một đám người bán đồ lưu niệm linh tinh, chúng tôi lấy vé (3000 đồng) rồi tự đi tìm cửa hầm xuống xem.

Trước khi đi, tôi mường tượng, những chiến hào công sự của chiến trường Điện Biên chắc có những chi tiết đặc biệt, ít ra cũng vẽ lại cho người xem đôi nét của một trân chiến nổi tiếng toàn cầu. Nhưng lạ thay, chẳng có gì. Hầm De Castries được phục chế khá công phu: Nóc hầm là những bao cát bằng xi-măng, trên phủ những tấm ri sắt cong như mái đò, cao quá đầu. Những bao cát y như thật, đầy rêu xanh. Chu vi hầm không rộng lắm, bằng căn nhà ba gian. Đường xuống hầm hẹp khoảng 1m, sâu 3m, bước xuống là vào hầm ngay. Hầm ngăn ra 7 phòng, giữa có lối đi, trần lót ri sắt, vách bằng bao cát, chân tường chạy phên nứa cao khoảng 1m.

Tất cả bằng xi-măng nhại rất khéo. Ánh đèn điện vàng khè nhưng cũng đủ để nhận ra mọi thứ trong hầm: Độc nhất một chiếc bàn sắt không lớn, một chiếc ghế, hỏi ra, đó là bàn làm việc của tướng De Castries. Chẳng lẽ De Castries đầu hàng chỉ để lại có thế! Tôi tưởng tổng hành dinh của một Đại Tướng phải có sa bàn, trên tường phải có bản đồ diễn tiến trận địa, phải có máy móc truyền tin, nghĩa là những vật dụng chứng tích của một Bộ Chỉ Huy hành quân.

Giả dụ di vật trưng bày ở Bảo Tàng thì nên tái tạo để minh họa, không nên quá đơn giản như một hầm trú bom mà ở nơi nào cũng có thể có. Rõ ràng là chúng tôi thất vọng. Thế này thì dựng ngay hầm “De Cát” giữa thủ đô, du khách đỡ mất công lần mò đến đây chi cho mệt.

Tôi chụp vội mấy tấm ảnh rồi ra ngoài, ở lâu trong những công sự phục chế, biết đâu đã đến ngày mục cột nát kèo, ầm một cái coi như tiêu hết mọi sự. Xây cất ở xứ mình không nói chuyện bảo đảm được. Tôi nhớ năm nào Nhà Hát Bông Hồng ở Hà Nội, xây chưa khánh thành đã sập (1). Dọc đường qua Đồi A1 tôi hỏi người bạn dẫn đường:

- Tướng De Castries bị đánh bại sau cùng hay vào lúc nào?

- Đợt tấn công thứ nhất ta chiếm cứ điểm Him Lam và Độc Lập phía Đông Bắc Điên Biên Phủ. Đợt hai tấn chiếm đồi C1, riêng A1 phải mất 30 ngày. Chiều ngày 7 tháng 5, sau 56 ngày đêm, kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại quân hơn 16 nghìn người của Pháp phải đầu hàng. Ngọn cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm “Đờ Cát.”
Đồi A1 cách đó không xa. Ngọn đồi cao hơn mươi mét, không lớn lắm. Lưng chừng dốc lên Đồi có “Bia kỷ niệm” nơi trung tá Piroth, chỉ huy pháo binh, đã tự tử sau khi không giữ được lời thề “ Sẽ dập họng súng của Việt Minh khi chúng mới khai hỏa.” Đúng khí phách một quân nhân. Tướng phải chết theo thành.
Đang lên đồi thì chợt có một cánh dù đỏ từ trên xuống, một cô Thái áo trắng váy đen, làm tôi nhớ lại hình ảnh cô Xoan bán rau ở chợ Tuần Châu mấy năm trước. Tôi cười trong bụng “mình hên thật.”
Vừa tầm tôi bấm máy thoải mái, ánh sáng chiều vừa phải, cảnh sắc rõ ràng. Anh bạn nghiên cứu sử thì máy ảnh bất động, đi thẳng lên đồi. Hứng chí tôi lại gọi từ xa, “Lui lại rồi từ từ đi xuống, như thế đúng rồi.” – “Qua trái một tí.” – “Dừng lại, ngã dù ra sau một tí...” Tôi chỉ huy như người mẫu của mình. Chụp xong, đến cảm ơn, lúc ấy có người đàn bà cùng đi với cô gái chào hàng, “Mời bác... ngày nghỉ cháu đến đây cho khách chụp ảnh để mừng tuổi ....” Tôi hiểu ngay, thảo nào mà “người mẫu” dễ thế, lại ăn mặc rất chỉnh, áo váy mới tinh, guốc cao gót... tuy không đẹp bằng cô Xoan song cũng không đến nỗi nào (2). Nhưng tuổi này còn mừng nỗi gì.

- Cháu hiện làm gì?

- Dạ cháu còn đi học.

Tôi ngạc nhiên, cô Xoan 15 tuổi đã theo chồng. Cô này ít ra cũng mấy con.

- Tôi thấy người “dân tộc” lấy chồng sớm lắm mà.

Người mẹ nhanh nhẩu:

- Không phải đâu, tùy gia đình, cháu mới 18 tuổi, đang học lớp 12. Bác thấy tóc cháu búi ở sau là biết.

- Bà nói vậy nghĩa là thế nào?

- Cô nào đã có chồng tóc phải quấn cao trên đầu ạ.

- Thế nhỡ có người muốn dấu cứ quấn ra sau thì sao?

- Không được đâu, dân bản sẽ tố cáo không cho phép.

Hèn nào nhiều bà Thái đội nón cứ cao lêu khêu. Người mẹ lại mời, “Bác mua hộ, rồi muốn chụp bao nhiêu cũng được.”

– “Vâng, lên đồi tôi chụp thêm mấy tấm rồi mua.”

Từ trên cao nhìn xuống cánh đồng Mường Thanh và thành phố Điện Biên có vẻ đẹp lạ lùng. Một khu nhà mái ngói đỏ nằm ven cánh đồng lúa vàng, những đụn khói trắng lên cao, ngoài xa núi lam bao bọc. Tôi gọi nhà sử học, “Ông ơi, bấm giùm tôi.” Tôi đưa máy cho ông bạn rồi đứng chụp với cô nữ sinh mấy kiểu. Sau đó tôi mua một chiếc khăn Piêu giá 50,000 đồng (mà không dùng vào việc gì cả).

Hầm đồi A1 đang được tôn tạo, công nhân đang lên xuống làm việc, chúng tôi chỉ đi quanh chẳng xuống làm gì. Biết chắc cũng chỉ là cái hầm trống trơn mà thôi. A1 là cứ điểm mạnh nhất của quân đội Pháp, Việt Minh phải mất 30 ngày mới phá nổi. Anh bạn cho biết, “Đồi A1 có nhiệm vụ bảo vệ hầm chỉ huy của “ Đờ Cát.” Bên cạnh còn có trung tá Piroth chỉ huy pháo binh Pháp. Ngày đêm đạn pháo rầm trời, quân đội VM tiến dần theo địa đạo mỗi ngày. Trong tình thế bị vây hãm, đến lúc lính Pháp trong hầm nghe tiếng cuốc xẻng đào công sự, biết là Việt Minh sắp vào mà đành bó tay. Đúng ngày giờ đã định một quả bộc phá 1,000 cân cho nổ, tất cả lính Pháp trong hầm chết nguyên vị thế mà không thương tích. Nghĩa là chết vì sức ép.” Người bạn chỉ cho chúng tôi một hố sâu, rộng như cái giếng làng, cách nóc hầm chừng mươi mét và nói tiếp, “Vì định tọa độ không chính xác nên không phá được hầm.” Trên hầm có xác xe tăng “Gazeille” và một lăng mộ của “4 anh hùng vô danh.”

Chúng tôi đi qua Nghĩa trang cạnh đồi A1, một nghĩa trang khá lớn, khác với khu mộ liệt sĩ các nơi. Cổng Tam Quan vào nghĩa trang làm kiểu vọng lâu 3 tầng. Thành dài cũng phải mấy trăm mét, có đắp phù điêu thếp vàng, đồ sộ nguy nga. Trước thành là một quảng trường rộng lớn, nhiều nghìn người thừa chỗ đứng để mít tin.

Trời đã chiều, chúng tôi xem qua rồi đi thăm thành Bản Phủ. Thăm đồng lúa Điện Biên, lên Bản Mển. Điện Biên, một vùng đất đã đi vào lịch sử và cũng là nơi đầy ắp những hình ảnh sinh hoạt của miền xuôi lẫn miền ngược. Điện Biên không thể nhìn chung chung như Sapa, Cao Bằng. Điên Biên đa dạng và nhiều màu sắc hơn nhiều.

Trần Công Nhung

Friday, July 24, 2015

Thánh địa Mỹ Sơn



Đường lên Mỹ Sơn


Nhà bưu điện


Khu Thánh Địa


Tượng cổ
 
Ngày xưa khi bà Huyện Thanh Quan đi qua nơi cung điện nhà Lê, thấy cảnh hoang phế bà đã động lòng làm bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” để bày tỏ nỗi luyến tiếc kinh thành một thời tráng lệ nay chỉ còn lại rêu phong:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.”
Ngày nay phần đất phía Nam từ Quảng Nam vào Bình Thuận chúng ta thấy có nhiều hình ảnh tương tự của dân tộc Chămpa. Thánh địa Mỹ Sơn được công nhận là di sản thế giới, là di tích tiêu biểu đậm nét văn hóa quyền uy của người Chăm vào thời kỳ cuối cùng trước khi mất hẳn do công cuộc mở rộng bờ cõi của người Việt.

Trước đây có một thời tôi làm việc ở Quang Nam, thường nghe nói đến Mỹ Sơn, quận Duy Xuyên, tuy không cách xa mấy nhưng lại thấy khó đi về. Thời chiến tranh, “xôi đậu” không rõ ràng, chẳng ai dại gì đi vào nơi rừng núi âm u, nguy hiểm tính mạng. “Gần nhà mà xa cửa ngõ,” là thế. Bây giờ cách một đại dương đi về lại dễ. Không gian và thời gian đổi thay theo cuộc sống và tình người.

Tour du lịch đi Mỹ Sơn không đắt, chỉ mấy chục nghìn đồng, nhưng không được thong thả theo công việc của mình, lại mất thì giờ chờ đợi. Từ Hội An lên Mỹ Sơn khoảng 50km, tôi đi xe ôm.
Sáng sớm, thành phố Hội An thật yên tĩnh, đường vắng tanh, gió mát như máy lạnh. Đi bộ, hít thở cái không khí trong lành đầu ngày, vừa thể dục vừa ghi nhận những hình ảnh, âm thanh, của phố cổ lúc còn say ngủ:

Một hai chiếc xe đạp của dân lao động, một vài tốp học trò đến trường tập thể dục. Mấy chị “công nhân môi trường” với cây chổi tre dài, thong thả như đếm nhịp, tiếng xẹt xẹt nghe thật rõ. Cách quãng xa mới có một quán cà phê nhóm lò bên đường…Đây là giây phút phố phường thư giãn, hiền lành êm ả, tôi không thấy e ngại dù đi vào chỗ tối vắng người.

Ra đến đầu đường Nguyễn Thái Học, gặp một anh xe chịu giá đi Mỹ Sơn 55 nghìn. Không phải mặc cả, tôi ngồi lên xe vừa nói, “Anh ‘tranh thủ’ chạy nhưng chỗ nào tôi vỗ vai thì chậm lại. Nơi nào cần dừng thì dừng, chỉ vài phút thôi.” Anh xe hứng chí phóng nhanh như đua, tôi run cầm cập, co người núp sau lưng xe, thỉnh thoảng hé mắt nhìn làng mạc trong sương mờ, tự nhiên được sống lại cái cảm giác ngày còn nhỏ, những ngày mà tuổi thơ không thấy giá rét, không thấy cực khổ thiếu thốn, chỉ thấy cuộc đời thật vui, lúc nào cũng mong chóng đến giỗ chạp, Tết nhất, hội hè…

Trời mờ sáng xe chạy ngang làng đúc đồng Phước Kiều, đã thấy nhiều nhà mở cửa, nào tượng đồng, chiêng còng, lư hương chân đèn... mớ bày dưới đất, mớ treo trên vách, la liệt như hàng chợ trời. Muốn ghé vào xem nhưng sợ tục lệ “mở hàng” đầu ngày, chủ nhà đã mời mà từ chối là có chuyện. Thường ít ai hiểu cho sự bất tiện những món lôm côm lích kích, chẳng thể nào mang theo với máy móc! Tôi vỗ nhẹ cho xe chậm lại, ngoái người bấm máy. Hình ảnh tư liệu, sao cũng được.

Vào đến ngã ba QL1 rẽ lên Duy Xuyên, trời sáng hẳn. Từng tốp học sinh trong đồng phục lũ lượt bên đường, hoặc hàng ba hàng bảy đạp xe, thong dong đến trường. Cảnh nữ sinh trong tà áo trắng tôi chụp đã nhiều ở trường Lý Tự Trọng (Võ Tánh) Nha Trang, Trưng Vương (Gia Long) Sài Gòn, Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho). Thế mà mỗi khi nhìn thấy áo dài lại vẫn thích, không thể không chụp. Có lẽ khung cảnh khác nhau, ánh sáng không giống nhau, nên cảm xúc dễ khơi động.

Huyện Duy Xuyên ngày nay có bộ mặt khác xa quận Duy Xuyên ngày trước, khu hành chính huyện nguy nga khang trang nằm ngay lộ, phố xá nhà tầng sáng sủa, buôn bán tấp nập. Với khách bàng quan, đây là dấu hiệu một đời sống sung túc, nhưng đấy là bộ mặt, lúc cởi áo, không biết “thân hình” ra sao!

Phía trên huyện một đoạn có con sông, hai bờ tre soi bóng, tôi xuống xe, chụp ảnh dòng sông phải cần góc độ, cần tính toán, nhất là mặt trời đỏ ối đang lên từ từ. Rồi rỉ rả từ từ, đường lên Mỹ Sơn, nhiều cảnh cũng hay, nhà thờ Trà Kiệu, ngôi giáo đường từ hơn thế kỷ, không thay đổi, không sơn phết sửa sang theo “hiện đại”; gợi cho du khách cả một quãng dài lịch sử. Hầu như giáo đường nào cũng màu đá xanh, màu xám mốc: nhà thờ Phát Diệm, nhà thờ Phú Cam, nhà thờ lớn Hà Nội. Không hiểu sao Thánh Đường Sài Gòn lại màu chu đỏ.

Đường vào Thánh Địa, qua một cổng chào, từ từ lên cao, và như đâm thẳng vào núi xanh. Đến đầu ngọn đồi cuối đường, một khu nhà tranh thấp thoáng sau tàng cây xanh lá: Nhà nghỉ, quán ăn, giải khát, kiểu “du lịch sinh thái.” Trái với hình ảnh đối diện, đang có công trình xây dựng khá lớn. Công trình theo mô hình nhà máy, một dãy dài, không có nét riêng của địa phương. Bên cạnh có trạm bưu điện nho nhỏ mang một tí văn hóa Chăm.

Còn sớm, tôi mời anh xe uống cà phê vừa nghỉ mệt. Quán chỉ một người lo các thứ cho khách. Anh xe lợi dụng gọi thêm 4 điếu thuốc Con Mèo.

- Cháu à, đang có công trình gì vậy?
- Dạ, nhà vãng lai khách quốc tế, và nơi làm việc cho các đoàn nghiên cứu.
- Hàng ngày khách đông không cháu?
- Dạ cuối tuần đông hơn, nhưng đa số khách phương xa theo tours và khách Tây là nhiều.
- Có phải mua vé không?
- Dạ, vé 30 ngàn. Chú qua cầu mua vé rồi có xe Jeep đưa vô tháp.

Chiếc cầu tre tương đối chắc, không lắt lẻo như cầu giây ở Buôn Đôn (1), nhưng chỉ dành cho người đi bộ và xe máy, không hiểu làm cách nào bên kia cầu lại có xe Jeep.

Phòng vé và chỗ nhân viên làm việc, ăn ở, rất luộm thuộm. Mấy ông cười nói bô bô, thấy khách ngơ ngác cũng mặc, hỏi họ mới chỉ cho cô bán vé ngồi dấu mình trong một góc phòng.

Đường dốc vào tháp có xe đưa, lúc ra, khách tự đi bộ. Mình tôi một chuyến xe, loại xe Jeep của quân đội miền Nam ngày trước. Dù đoạn đường chưa tới cây số, đi chân cũng hơi mệt. Xe thả khách xuống điểm trung tâm, nơi có nhà hàng, nhà bán quà lưu niệm, nhà biểu diễn văn nghệ. Từ đây theo con đường mòn, tương đối bằng, khoảng 500m là đến khu Thánh Địa.

Vẫn còn sớm, tôi thăm qua sinh hoạt chung quanh, một nhà bán giải khát sách báo kỷ vật và tượng phục chế theo kích thước nhỏ. Đối diện có nhà văn nghệ, các cô đang ôn tập múa. Lát sau có đoàn du khách vào, tôi nhập bọn cùng đi bộ vào tháp.

Chim rừng cất tiếng “chào mời.” Nhiều tiếng bồ chao, bìm bịp, chóp mào, chim sâu…toàn chim dân dã. Không nghe tiếng họa mi, hoàng oanh, chích chòe…Con đường mòn nhiều cành lá vươn ra lối đi, có lẽ ít người qua lại và cũng chưa được dọn cho tươm tất.

Sau chừng mươi lăm phút thì mọi người đều dừng lại, trước mặt hiện ra một vùng đền đài, tháp cổ đã hư rã theo thời gian. Chu vi khu di tích ước chừng 100m mỗi bề.

Lúc này thì không ai nói gì chỉ có tiếng chim và tiếng máy ảnh. Tôi phải chụp nhanh nhiều góc độ trước khi đoàn du khách tràn vào. Toàn bộ khu di tích gần như nguyên trạng, không tô đắp sửa chữa, dáng vẻ và màu sắc nói lên cả một chuỗi lịch sử dài hàng thế kỷ. Ánh sáng tươi mát ban mai, sau lưng khu tháp là mấy ngọn núi xanh lơ, điểm mây bạc, trời rất mùa thu... tuy rừng cây lá không vàng.

Có lẽ đã đầy ắp cảm giác và hình ảnh về khu Thánh Địa nên ai nấy từ từ lần vào. Rải rác đó đây, có những tấm bảng chỉ dẫn: Khu A, khu B, khu C…F, có 8 khu nằm kề nhau. Mỗi khu là một phần đặc trưng của Thánh Địa...
Thánh Địa Mỹ Sơn được dựng từ thế kỷ 4 giữa vùng núi thâm u, nay thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Theo các nhà khảo cổ căn cứ trên bia khắc thì đền được vua Bhadresvara xây để cúng vua thần Siva Bhadresvara.

Thoạt tiên đền làm bằng gỗ, qua thế kỷ VI bị hỏa hoạn thiêu rụi. Đến thế kỷ VII vua Sambhuvarman xây lại ngôi đền bằng gạch, đá. Liên tiếp nhiều thế kỷ cho tới thế kỷ XIII hơn 70 đền tháp được xây dựng, và Mỹ Sơn trở thành Thánh Địa Ấn Giáo của vương quốc Chămpa.

Tôi xem và chụp ảnh một vài khu chính: Khu A là khu đầu tiên, ngay lối vào. Chính giữa có một nền cao chừng 2m xếp bằng đá tảng có hoa văn. Khu này hai bên còn hai tháp, phía sau cùng có hai tháp. Bên ngoài các tháp phần lớn bị mưa gió xâm thực, nhiều góc cạnh sứt mẻ, bên trong có trưng bầy một số tượng không đầu, một vài mảnh hoa văn. Trước đền chính có một số đế đá tròn lớn, chạm trổ, trên có khoét lỗ vuông (để ráp mộng?), một số trụ lục giác, hai đầu cũng khoét lỗ như vậy.

Hai ngôi đền phía sau có dạng khối chữ nhật, cửa thì khác nhau: Một bên đầu cửa nhọn theo hình tháp, một bên thẳng cạnh hình chữ nhật. Mái đền hỏng nặng nên có mái nhân tạo để che nắng mưa, trong có nhiều vật trưng bầy: Tượng thú vật, tượng người ngồi theo thế bán kiết già, hầu hết đều bị mất đầu. Giữa hai đền này có hai hàng tượng đá cũng không đầu. Đa số đền đài Việt Nam các tượng cổ thường không còn đầu, chẳng phải do thời gian làm hư hỏng mà chính do con người đánh cắp làm của riêng. Một trong hai đền có một vỏ đạn đại bác cao gần 1 mét, chẳng ăn nhập gì với những thứ trưng bày. Nếu muốn nói tội ác chiến tranh tôi tưởng nên để chỗ khác thích hợp hơn. Cũng có những tấm bảng kẽ chữ rất đẹp, tưởng chú thích về sự tích đền, hóa ra “Cấm leo trèo viết bậy.”



Khu đền chính


Khu tháp bị phá


Phía sau đền chính


Linga và yoni


Khu đền B


Vũ khúc Champa
 
Thảm thương cho 4000 năm văn hiến! Khắp nước nơi nào cũng “đạt chuẩn văn hoá” nhưng bảng cấm cắm đầy, từ công viên đến đình chùa miếu mạo. Có những cáo thị rất dung tục. Như vậy có nghĩa bao nhiêu nhà trường bấy nhiêu nhà tù hay sao!

Du khách đến thăm Thánh Địa Mỹ Sơn không ồ ạt xô bồ như kiểu đi xem hang động, hội hè, không trẻ con, không hàng rong nhảm nhí. Đến Mỹ Sơn cũng như vào bảo tàng di tích, ai nấy đều có phong thái trầm lắng suy tư.

Một nhóm người Đông Âu, họ xem xét trao đổi, ghi chép và chụp ảnh rất kỹ, có người tách riêng ra một mình ngồi trước khu đền chỉ còn ngôi tháp nhỏ, anh đang suy nghiệm về thời gian về đời sống, về đổi thay của tạo hóa? Mọi người đi qua rất nhẹ, không ai quấy rầy anh. Một ông già tóc râu bạc trắng, có lẽ là trưởng đoàn. Tôi đến nhờ ông bấm cho tấm ảnh, ông vui vẻ và tỏ ra thông thạo, không cần phải chỉ dẫn gì cả.

Theo bản đồ toàn bộ Thánh Địa có 8 khu, ngoại trừ khu A những khu khác di tích không còn lại bao nhiêu, có khu chỉ còn nền trống. Khu F đang có công trình tái tạo một tháp lớn, hiện chỉ thấy dàn giá chứ không có chuyên viên hay nhân công làm.

Nhiều nơi trùng tu, sửa chữa các công trình kiến trúc cổ, nhưng lại chắp vá tô vẽ theo kiểu thợ hồ, làm cho di tích mất hết ý nghĩa. Tháp Bà (Nha Trang) chẳng hạn, sân tế lễ với hai hàng trụ cao lớn uy nghi, trên mười thế kỷ nắng gió ăn mòn, nay được xây lại bóng láng, tưởng chừng mới có hôm qua. Nghe nói Tháp Chàm ở Phan Rang do đoàn chuyên viên Ba Lan tu sửa nên giữ được phần nào nét nguyên thủy. Ngôi nhà cổ ở làng Tây Giai tỉnh Thanh Hóa (2) được Unesco trùng tu, ngói, gỗ, nói chung vật liệu đều được thay thế y như trước.

Lối đi đến các khu tháp không xa mấy, quanh co qua rừng cây rất thiên nhiên, nhưng thiếu bảng chỉ dẫn, du khách không biết lối nào đi tiếp, lối nào ra nhà trung tâm, cứ phải mất thì giờ lanh quanh lui tới.

Thánh Địa Mỹ Sơn thể hiện rõ rệt nền văn hóa Ấn. Đến Mỹ Sơn tôi thấy khác xa khi thăm những đền đài khác, ở đây đầy vẻ u tịch, trong thinh không vắng lặng, con người dễ quay về với quá khứ, dễ hồi tưởng những gì đã qua, tưởng chừng như mình sống lùi lại lịch sử một thời. Du khách có thể ngồi một góc trước “Nền Cũ” mà trầm ngâm ngắm nhìn, dấu vết của công trình kiến trúc, hình ảnh một nền văn minh từ hàng bao thế kỷ nay đã nhòa nhạt. Đối diện với một di sản lịch sử như vầy chắc chắn không ai, kể cả người nước ngoài, có tâm phân biệt đây là công trình của phong kiến hay đế quốc, chân hay ngụy, mà chỉ có tiếc thương và hoài niệm. Nhưng giá ban quản lý bỏ công chăm sóc thêm, đừng cho cỏ cây hoang dại mọc phủ vết tích xưa, vốn không còn bao nhiêu, lại rất dễ bị hư hỏng nếu cây đâm rễ lâu ngày. Công việc này không mấy khó, cũng chẳng tốn kém bao nhiêu, một người chuyên làm sạch những cây dại ký sinh trên nền trên tháp, như thế giữ cho di tích được sạch sẽ rõ nét hơn. Tiền bán vé thay vì xây cất công trình phụ như nhà khách, phòng họp…nên dành một phần cho công tác này.

Thăm khu thánh địa, du khách chẳng ai bị quấy rầy bởi sinh hoạt đời thường. Tôi nghĩ đây là điểm son của ngành du lịch Quảng Nam, ít nơi có.

Khoảng 10 giờ, sau khi thăm tháp trở ra, khách được mời vào hội trường nghỉ ngơi xem văn nghệ. Văn nghệ là một phần trong chương trình phục vụ du khách. Tôi ra sớm, có ý làm quen với cô diễn viên trẻ đẹp, có vẻ như người hướng dẫn đội múa.

Sau một vài lần chỉ dẫn cho các bạn về nhịp điệu trong màn vũ, cô gái xuống ghế ngồi theo dõi các bạn tập trên sân khấu. Tôi làm ngay cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:

- Chào cháu, cháu là trưởng đoàn văn nghệ?

- Dạ, không. Mấy anh kia chú.

- Thấy cháu có vẻ thành thạo hơn các bạn.

- Dạ, cháu cũng diễn viên thôi.

- Cháu làm trong đội văn nghệ lâu chưa?

- Dạ, cháu ở Bình Thuận được cử ra giúp cho mấy chị múa.

- A, vậy cháu cũng ở trong ngành văn hóa chứ?

- Dạ, không, cháu đang đi học. Qua hè cháu về Sài Gòn học nghề và đi làm trong đó.

- Trong đoàn có ai là người Chăm không cháu?

Cô gái nhìn tôi cười:

- Cháu và chị kia, chú không thấy cháu là người Chăm hả.

Tôi lặng đi mấy giây. Người Chăm mà đẹp và duyên dáng đến thế thì làm sao ai biết.

- Chú thât không ngờ, chú cứ nghĩ cháu là người Kinh. Cháu tên gì?

- Lâm Minh Mỵ, chú không phân biệt được người Chăm, người Kinh ?

- Chú xin lỗi, xưa nay, hể cứ đen đủi và thô kệch là Chăm, có dè đâu cháu đẹp vậy. Mà Lâm là họ người Tàu chứ?

- Dạ, không đâu, họ người Chăm theo hai dòng: Bà La Môn gồm có họ Chế, Dương, Hán, Đàn. Còn dòng Bà Ni có Lâm, Đạo, Nương... nhiều lắm chú ơi.

- Hay thật, chú mới biết lần đầu.

Người con gái cười cười, hàm răng đều tăm tắp và trắng muốt, đôi mắt to sáng long lanh, tôi không tài nào mô tả được vẻ đẹp của Mỵ, chỉ biết đẹp, đẹp núi rừng hoang dã, đẹp kiêu sa thị thành. Hởi những nhà thơ thiên tài: Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyến Bính, xin triệu thỉnh chư liệt anh linh về chiêm ngưỡng…

- Lúc nãy cháu bảo phân biệt người Chăm như thế nào?

- Dễ lắm, chú nhìn vào đôi mắt cháu, có gì khác không…

Trời đất, nhìn vào đôi mắt có mà chết chứ “phân giải” nỗi gì…Nhưng đã được gợi ý thì tội gì không nhìn. Và, tôi nhìn thật kỹ, thật lâu, không chỉ nhìn vào đôi mắt, mà nhìn ngắm hết cả khuôn mặt người diễn viên trẻ. Tôi chẳng phân biệt được gì, chỉ thấy trong đôi mắt người con gái xứ Chăm có cái gì u ẩn xa vời vợi, như một thoáng hận nghìn đời phảng phất đâu đây. Phải chăng nhà thơ họ Chế đã nhìn ra điều này khi viết:
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày mềm oán hận
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn
- Cháu có thể cho chú chụp một hai tấm ảnh?

- Nãy giờ thấy chú chụp nhiều rồi mà.

- Chú muốn chụp chân dung cháu và ảnh cháu đứng bên thềm Thánh Địa.

- Vậy chú đợi cháu diễn xong đã.

Khán giả hai nhóm, trong khu di tích ra và ngoài mới vào, nhập lại, ghế trong hội trường không còn, một số người phải đứng chung quanh. Những ai chụp ảnh thì chạy chứ không chiếm ghế làm gì.

Tôi chắc trong số khán giả không ai vui như tôi, tôi theo sát các màn múa và chụp ảnh thật nhiều. Múa không lời ca tiếng nhạc, chỉ có tiếng trống bập bùng theo nhịp bước chân, đôi cánh tay nối dài hai giải lụa tung bay, uyển chuyển như cánh thiên nga, có lúc hai tay xòe hai cánh quạt như đàn hạc hạ cánh…

Trang phục vũ công màu sáng và đơn giản, quần hay váy màu trắng, áo xanh hay vàng, không nặng nề hoa văn cầu kỳ, không lớp trong lớp ngoài như người Tây Nguyên, Tây bắc…tôi thấy họ rất gần với người Kinh. Đặc biệt, đàn ông lúc nào cũng quấn đầu khăn trắng, vũ nữ luôn có giải đỏ thắt lưng và choàng vai. Có những màn múa, đầu đội một cổ bồng trầu cao nghệu, người Chăm gọi là Thôn Ha La, những lúc ngả người theo điệu múa, cổ bồng vẫn y nguyên.

Chương trình có 4 vũ khúc và màn thổi sáo Satanai của nghệ sĩ già người Chăm: Chú Tốn. Sáo Satanai là loại sáo đặc biệt của người Chăm, gồm ba phần nối lại. Người nghệ sĩ lim dim mắt, chuyền tất cả hơi trong buồng phổi ra đầu miệng sáo. Bài nhạc sáo dài một hơi từ đầu tới cuối, âm điệu buồn ai oán như hơi thở của núi rừng thăm thẳm vọng về. Điều đặc biệt hiếm thấy là trong khi tiếng sáo không hề đứt đoạn thì ống sáo được tháo bỏ từ từ… Phần miệng sáo, phần thân sáo. Buổi biểu diễn kết thúc trong tiếng vỗ tay khen thưởng vang cả hội trường. Nhưng, không thấy ai, Tây lẫn ta, cho tiền (donation) hay thưởng một thứ gì.

Tôi tìm Mỵ để chụp thêm ít ảnh. Ảnh như thế nào chưa biết, nhưng ở đây có cái phong vị đặc biệt, nó làm ray rứt trong lòng nếu không “hoàn tất nhiệm vụ”. May mắn, mọi chuyện tốt đẹp như mong chờ.

Lúc ra về một ông khách chạy theo hỏi: “Cô gái ông chụp Kinh hay Chăm mà đẹp vậy”? Tôi cười không trả lời. Có người cùng chia sẻ với mình là được rồi. Không nên nói hết mọi chuyện. Phải có chút gì vướng víu mới hay.

Chiến tranh và vô thức con người đã làm hư hại phần lớn khu Thánh Địa Mỹ Sơn, nay chỉ còn chừng 20 tháp, những tác phẩm điêu khắc trên sa thạch được Viện Viễn Đông Bác Cổ đưa về trưng bầy trong Museum Chămpa Đà Nẵng, rải rác ở khu A một số tượng đá không còn đầu.

Mỹ Sơn, kinh thành của Chămpa có từ trước thế kỷ IV, nơi đã trải qua bao triều đại được coi như biểu tượng tâm linh và uy quyền của một dân tộc, nay chỉ còn lại âm vang buồn thảm xa vắng, ngày một chìm dần. Con người bây giờ, đầy tham vọng, khó mà dựng lại hào quang thần thánh của một dân tộc đã lụn tàn.

Trần Công Nhung