Monday, August 31, 2015

Đền thờ Đào Duy Từ

Qua tiểu sử, ta thấy ngay Đào Duy Từ bất mãn với chế độ Đàng Ngoài và mong mỏi phụng sự Nam Hà, do đó tác phẩm của ông bao hàm tư tưởng của một người quyết đem tài mình bồi đắp giang sơn Miền Nam.
Qua thơ văn, Đào Duy Từ đã bộc lộ tâm sự mình và nói lên quyết tâm của người Nho sĩ dốc lòng phục vụ chế độ mình đã chọn.
Năm 1634, ông qua đời, để lại các tác phẩm:
- Hổ tướng xu cơ tập (luận về binh pháp)
- Ngọa Long Cương
- Tư Dung Vãn
Hai tác phẩm quan trọng của Đào Duy Từ: Ngọa Long Cương và Tư Dung Vãn đều viết theo thể lục bát trường thiên. Ngọa Long Cương dài 136 câu đi luôn một mạch, Tư Dung Vãn, dài 336 câu, có xen lẫn những bài ca, những khúc ngâm, hoặc thơ Đường Luật, tùy theo dòng tư tưởng khi phóng khoáng, lúc nghiêm trang...
Nhìn chung Ngọa Long Cương xuất hiện lúc tác giả còn trong thời ẩn dật nuôi chí lớn. Tư Dung Vãn được sáng tác lúc danh ước đã đạt nên phản chiếu tình hình xã hội Nam Hà cũng như có rất nhiều câu ca tụng các Chúa Nguyễn.Ông biết giữ khí tiết ẩn nhẫn, và xuất hiện đúng thời như Khổng Minh thuở trước:
“Nhân tài tuy khắp nơi dùng
Đua trên đường lợi, áng công vội giành
Nào ai lấy đạo giữ mình
Kẻ đua tới Ngụy người giành về Ngô
Nam Dương có sĩ ẩn nho.
Khổng Minh là chữ, trượng phu khác loài.”
(Ngọa Long Cương Ngâm)
Đình Lạc Giao (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Trong thời gian chưa được thi thố tài năng, ông vui thú cảnh thiên nhiên, ca phong, vịnh nguyệt hay vui với công việc đồng áng nông gia:
“Khúc cầm cổ cẩm cung xoang
Ca ngâm Lương Phủ đạo càng hứng mau.
Của kho vô tận xiết đâu
Thú vui thuở thế ai dầu mặc ai
Thanh nhàn, dưỡng tánh hôm mai
Ghềnh trong cuốc nguyệt, bãi ngoài cày mây”
(Ngọa Long Cương Ngâm)
Khi đã có chốn nương thân vững chắc Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua giúp nước nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm "Ngọa Long Cương" của mình gồm 136 câu lục bát, cho Trần Đức Hòa xem. Nội dung bài thơ chính là nỗi lòng của Đào Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng.(1) Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện rõ ở đoạn kết:
Chốn này thiên hạ đã dùng
Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên
Án thờ trong Thái miếu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)



Khám Lý Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài ''Ngọa Long Cương'' của con rể, thấy văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn lao, đã tấm tắc khen. Tương truyền, khi làm thầy dạy học ở nhà quan Khám Lý Trần Đức Hòa, Đào Duy Từ thường ngâm bài thơ này. Chính nhờ bài thơ chất chứa tâm huyết này mà ông đã được đến với chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sử chép lại rằng, trước lúc tiến cử ông, Trần Đức Hòa đã đem dâng bài thơ lên chúa. Chúa xem thấy lạ, lập tức cho mời Đào Duy Từ.
Bài Tư Dung Vãn gồm 336 câu thơ lục bát xen kẽ bảy bài thơ thể ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt cũng là một áng văn hay, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên nơi cửa biển Tư Dung(2) và cảnh sống thanh bình của vùng đất Phương Nam, nơi có chúa hiền tài giỏi. Ngoài ra tương truyền rằng vở tuồng Sơn Hậu cũng như các điệu múa Hoa Đăng, Nữ tướng xuất quân, cũng đều do Đào Duy Từ sáng tác.
Bấy giờ chúa Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài vãn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám Lý Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp Chúa.
Thái miếu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề, nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng, vì chưa có chức tước!
Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên Chúa mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy. Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của Chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ:
- Người kia là ai vậy, thưa cha?
Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời:
- Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!
Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại chứ không đi nữa. Khám Lý Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ quá, liền níu lại quở trách:
- Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha cả thôi!
Duy Từ đáp:
- Thưa cha, vì con thấy Chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mỹ nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vào tội khinh vua.
Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy chào Chúa, không được để Chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không chịu nghe lời.
Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, được ra mắt Chúa, hòng tiến thân kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi mời vào sảnh đường tiếp kiến.
Cổng đình (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh Chúa để bàn bạc việc quốc gia đại sự. Ông được phong chức Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.
Chỉ có tám năm đến với chúa Nguyễn, một khoảng thời gian không dài mà sự nghiệp Đào Duy Từ được các vua Nguyễn sau này xếp vào hàng đệ nhất khai quốc công thần. Thế mới biết tài năng khi được phát hiện và trọng dụng thì có ích biết dường nào.(3) Tất nhiên sự nghiệp rực rỡ của Đào Duy Từ không thể tách rời sự anh minh sáng suốt dụng người của chúa Sãi Vương, mặt khác, thành công của Chúa trong việc biến các ý tưởng của cha thành hiện thực có phần đóng góp xuất sắc của Đào Duy Từ.
Hai trăm năm sau Nguyễn Hoàng, người Việt đã lập nghiệp tới tận chót mũi Cà Mau. Dù có những hạn chế khó tránh khỏi trong xã hội phong kiến, ta thấy sự nghiệp mở cõi của nhà Nguyễn thật lớn lao, trong đó sự xuất hiện đúng lúc của Đào Duy Từ như vì sao Bắc Đẩu, như ngọn đuốc soi đường.
Đến năm Minh Mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửa chữa lăng mộ cho ông. Năm 1932, vua Bảo Đại sắc phong Đào Duy Từ làm Thần Hoàng làng Lạc Giao, đất "Hoàng triều cương thổ" ở Buôn Ma Thuột, Dăk Lăk.
Năm Gia Long thứ tư (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được thờ ở nhà Thái Miếu,(4) được cấp 15 mẫu tự điền và sáu người trông coi phần mộ.

Tuy ông sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa nhưng làng Tùng Châu, xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn) mới thật là đất dụng võ của Đào Duy Từ, nơi đã hun đúc tài năng và ý chí của ông, giúp ông khởi nghiệp lớn. Sau khi ông qua đời, chúa Nguyễn cho đưa thi hài về mai táng và lập đền thờ tại đây. Hiện nay trên vùng đất thuộc Tùng Châu xưa vẫn còn một số di tích liên quan đến Đào Duy Từ .
Di tích lăng mộ Đào Duy Từ nay thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm Gia Long 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và sáu người trông coi phần mộ. Đến năm Minh mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại tôn tạo lăng mộ cho ông. Trải qua thời gian và chiến tranh, lăng mộ ông bị hư hại nhiều. Lần sửa sang gần đây nhất vào năm 1999.
Khu lăng mộ ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Di tích Nhà thờ Đào Duy Từ hiện tại thuộc thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn. Nhà thờ nằm trong khuôn viên một thửa đất hình chữ T có diện tích 1.616 m2, được xây dựng vào năm Tự Đức 12 (1859), đã qua nhiều lần trùng tu. Nhà thờ có tam quan cao khoảng 6m, hai mái lợp ngói âm dương, trên có bốn chữ lớn “Quốc Công Từ Môn” (cổng đền thờ Quốc công) ghép bằng mảnh sứ, hai bên đắp phù điêu hình hai con dơi cách điệu, đường nét khá sắc sảo, bốn trụ góc có hình rồng uốn lượn. Qua Tam Quan có sân nhỏ hình chữ nhật, kích thước 6.9m x 7.8m. Tiếp đến là bình phong đắp hình long mã lưng có hà đồ nỗi trên mặt nước, mặt sau đề bốn chữ “Bách Thế Bất Di” (Trăm đời không thay đổi). Ở hai bên là đôi câu đối nhắc đến lai lịch Đào Duy Từ:
Ngọc sơn chung tú Bắc
Bồng lãnh hiển danh Nam
(Núi Ngọc hun đúc tinh hoa xứ Bắc
Non Tiên vẻ vang danh tiếng miền Nam)
(Nguyễn Nam Ninh dịch)
Cách đều bình phong 2.6m về hai bên có hai cột trụ cao 4m, trên đỉnh đắp tượng hạc đứng chầu đối xứng, phía sau là sân lớn hình chữ nhật với kích thước 15.4m x 14m, qua sân lớn đến nhà thờ được thiết kế kiểu nhà mái lá, một kiểu kiến trúc truyền thống ở Bình Định. Khám thờ bên trong có bài vị của Đào Tá Hán , Nguyễn Thị Minh(1) (thân phụ và thân Mẫu của Đào Duy Từ), Đào Duy Từ và vợ. Trên bài vị Đào Duy Từ có dòng chữ “ô Thủy tổ khảo nội tán Lộc khê hầu Đào Công, tặng Khai Quốc công thần, đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sỹ, Thái sư, nhưng thủy Trung Lương, phong Hoàng Quốc Công thần chủ” Bài vị của vợ Đào Duy Từ viết “ô Thủy tổ tỉ nội tán Lộc khê hầu Hoàng Quốc Công phu nhân, Trinh thục cao thị thần chủ”. Trong nhà thờ còn có đôi câu đối nhưng nay đã sứt mòn, mờ không đọc được.
Di tích nhà thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài thuộc xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn. Sách đại nam Nhất Thống chí và đồng khánh dư địa chí đều chép đền thờ Hoàng Quốc Công Đào Duy từ ở thôn Cự Tài, huyện Bồng Sơn (nay là Hoài Nhơn). Trong chiến ranh nhà thờ này đã bị sụp đổ. Năm 1978 dòng họ Đào xin kinh phí tỉnh Nghĩa Bình để xây dựng lại đền thờ trên nền cũ, hiện chỉ còn lại hai trụ cổng và tấm đại tự cũng đề “Quốc công từ môn” (giống như nhà thờ ở thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây) là dấu tích kiến trúc năm Tự Đức thứ 32 (1880) và lần trùng tu năm Khải Định thứ 1 (1861). Trong đền thờ khám thờ là bài vị Đào Duy Từ cũng ghi giống như bài vị bên nhà thờ thôn Ngọc Sơn.

                                     Nhà thờ ở Ngọc Sơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Ngoài ra, tại thôn Ngọc Sơn còn có lăng Đào Tá Hán. Truyền rằng khi đã làm quan ở Thuận Hóa, Đào Duy từ cho đắp mộ phụ thân rồi tung tin rằng đã đưa hài cốt cha mẹ vào đây, phòng việc trả thù của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lăng mộ nằm trên một quả đồi rộng. Cũng tại Ngọc Sơn hiện có một ngôi chùa nhỏ, tương truyền là nơi đi tu của bà vợ cả họ Đào.
Những di tích kể trên, theo đơn vị hành chính hiện nay, nằm ở các thôn, xã khác nhau (lăng mộ Đào Duy Từ tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, nhà thờ và lăng mộ Đào Tá Hán tại thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây và nhà thờ ở thôn Cự Tài, xã Hoài Phú ) nhưng tất cả vốn đều thuộc vùng đất của trại Tùng Châu xưa. Đây là những xã thôn mà hiện nay con cháu Đào Duy Từ còn rất đông đảo, đặc biệt là ở thôn Cự Tài.
Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 (âm lịch) là ngày giỗ Đào Duy Từ, con cháu họ Đào tổ chức cúng tế rất long trọng. Theo quy ước, cứ vào dịp này con cháu dòng tộc điều nghỉ việc đồng áng trong ba ngày. Sau khi làm lễ thắp hương tại lăng mộ Đào Duy Từ (thôn Phụng Du) con cháu về họp mặt và dâng hương tại đền thờ cha mẹ và vợ chồng Đào Duy Từ ở thôn Ngọc Sơn rồi sau đó mới trở về tế lễ chính thức tại đền thờ Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài.
Mộ ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Ngoài ngày giỗ chính (17 tháng 10), hàng năm tại các di tích trên còn có 5 ngày lễ phụ vào dịp Đông chí, Chạp mả, Thanh minh, Trung thu và Tết Nguyên Đán. Ngày giỗ Đào Duy Từ cũng là ngày con cháu phối hợp cúng tế thân phụ và thân mẫu cùng vợ của ông. Duy bà vợ cả còn có ngày riêng là 12 tháng 2 âm lịch tại chùa tu của bà ở thôn Tài Lương. Giỗ bà hàng năm (gọi là tiểu chẩn cúng chay), cứ mười năm (gọi là trung chẩn), lễ vật có thêm đôi chim sống, một đôi gà sống, cúng xong thả chim gà ra, con cháu thi nhau đuổi bắt, cứ 30 năm (đại chẩn) mới làm cỗ mặn.
Báo Bình Định (http://www.baobinhdinh.com.vn/) có giới thiệu đền thờ Đào Duy Từ ở làng Lạc Giao thành phố Buôn Mê Thuột: "Đình Lạc Giao phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, được lập năm 1929, là ngôi đình làng đầu tiên của những người Việt (Kinh) từ đồng bằng lên đây lập nghiệp, thờ vị thành hoàng làng là Đào Duy Từ.”
Ngôi đình ban đầu làm bằng tranh tre, năm 1932, ngôi đình được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói theo hình chữ Môn, gồm có nhà thờ Thần Hoàng và những người có công với nước, hai nhà tả hữu hai bên dùng làm nơi hội họp mỗi khi tế lễ, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng có bức bình phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn. Làng Lạc Giao hình thành bắt đầu từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh sống, những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng đất xa xôi này. Ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ làm rẫy dọc theo khu rừng già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột. Năm 1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh - Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới.

Bình phong lăng ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Năm 1925, làng Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột. Tài liệu của đình Lạc Giao ghi: ông Phan Hộ, người Quảng Nam, vào Ninh Hoà (Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak chưa có đường, ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa xuyên rừng vài tháng mới tới vùng M'Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi hàng hoá với người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất đai màu mỡ lại dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh sống, khai hoang lập làng.
Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán khôn nguôi khiến họ thường tìm nhau gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn. Để có nơi cúng kiếng ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm, họ đã góp tiền của công sức dựng nên ngôi đình ngôi đình Lạc Giao cho thỏa lòng mong ước. Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiền hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.
                  Nhà bia ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho Thành hoàng của làng là Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của "Hoàng triều cương thổ".
Đúc kết, chúng ta thấy cuộc đời của Đào Duy Từ trải qua bao thăng trầm, biến thiên ẩn dật, cứ như chuyện giai thoại thần tiên mà một người bình thường dù tài trí mấy cũng khó vượt qua. Một bậc danh nhân toàn tài như Đào Duy Từ, đã cống hiến toàn lực cho công cuộc mở nước về phương Nam, đáng được các vua Triều Nguyễn tôn vinh, nhân dân tôn thờ. Một bài học “Hữu xạ tự nhiên hương” không phải nhọc công hò hét kêu gọi, ép buộc người khác sùng bái bằng xảo ngôn bất chính, tuy đắc thế một thời nhưng muôn đời sau sẽ bị nguyền rủa.

Trần Công Nhung (2015)

Wednesday, August 26, 2015

Lũy Thầy

“Lũy Thầy ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu
Đó là hai câu ca dao mà bất cứ người dân Quảng Bình nào cũng thuộc. Sông Gianh và lũy Thầy là phòng tuyến chận quân Đàng ngoài suốt mấy mươi năm Trịnh Nguyễn phân tranh. Lũy Thầy gắn liền với nhà quân sự tài ba Đào Duy Từ. Ông là người xã Hoa Trai, huyện Tỉnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Lũy Thầy là một hệ thống gồm ba lũy do Đào Duy Từ và con rể Nguyễn Hữu Tiến trực tiếp chỉ huy xây dựng:
Lũy Trường Dục
Được xây dựng vào năm 1630 từ núi Thần Đinh(7) men dọc theo bờ sông Long Đại, qua các làng Trường Dục, Xuân Dục, Cổ Hiền, chạy vòng xuống đến làng Bình Thôn, Quảng Xá rồi đến vùng động cát đầu phá Hạc Hải.(8) Lũy được đắp bằng đất sét chân lũy rộng 6m, dài 10 km, cao 3m. Lũy Trường Dục nay thuộc huyện Quảng Ninh.
Lũy Nhật Lệ (Trấn Ninh - Đông Hải)
Cầu Long Đại núi Thần Đinh (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Đến năm 1631, chúa Nguyễn tiếp tục cho xây lũy Động Hải cách lũy Trường Dục 20 km về phía Bắc. Lũy cao tầm 6m, dài hơn 12 km, phía ngoài được đóng cọc bằng gỗ lim, phía trong đóng cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp, voi ngựa có thể đi được. Cứ cách 12 đến 20 mét lại xây một pháo đài đặt súng thần công, cách một trượng (4 mét) lại đặt một súng phóng đá. Lũy Nhật Lệ (Động Hải Trấn Ninh) được chia làm hai đoạn:
Đoạn thứ nhất chạy từ núi Đầu Mâu, dọc theo nam sông Lệ Kỳ ra đến cầu Dài ở phía nam Đồng Hới. (Đoạn này còn gọi là lũy Đầu Mâu)

                                         Cửa Nhật Lệ và Lũy Thầy (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Đoạn thứ hai tiếp nối với lũy Đầu Mâu, chạy từ cầu Dài, vòng sang phía Tây thành Đồng Hới, bọc lấy làng Đồng Phú, qua Hải Thành ra đến cửa sông Nhật Lệ.
Lũy Nhật Lệ nay thuộc địa phận các xã Phú Hải, Đồng Phú, Hải Thành (thành phố Đồng Hới). Lũy Nhật Lệ dài 3000 trượng (12km) từ Đầu Mâu đến cửa Nhật Lệ hiện nay chỉ còn lại 3 cửa:
- Cửa Tấn Nhật Lệ
Sơ đồ hệ thống lũy Thầy (Trần Công Nhung/Viễn Đông)



- Cửa Lý chính Đại quan môn, sau đổi là Võ Thắng Quan, còn gọi là cổng Thượng. - Cửa vào Dinh Quảng Bình còn gọi là Quảng Bình Quan. Trong ba cửa, Quảng Bình Quan là được xây dựng kiên cố và cao lớn đồ sộ nhất, nhằm tăng cường thêm sức mạnh phòng thủ và tiện cho dân chúng đi lại trong thành. Quảng Bình Quan được vua Minh Mạng cho xây dựng lại bằng gạch đá vào năm 1825. Cổng có kích thước dài 2 trượng 1 thước (8.4m), rộng 2 trượng 5 thước (10m), cao 5 thước (2m).
Các thành lũy ngày xưa thường bố trí 4 cửa theo 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc: Tiền, Hậu, Tả, Hữu; duy thành này chỉ có 3 cửa (cửa Tả, Hữu, Hậu, không có cửa Tiền). Đây cũng là một điểm rất khác lạ về cấu trúc của thành lũy.
                                                  Cửa Tấn Lệ (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
 
Ghi về cửa này, sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Cửa quan dài 2 trượng 1 thước; ngang 2 trượng 5 thước; thành ngoài che chắn hộ vệ, cửa quan dài 14 trượng 6 thước, cao 3 thước. Năm Minh Mạng thứ 6 xây bằng đá; năm thứ 7 (1826), đặt tên Quảng Bình Quan; năm thứ 17 đúc xong Cửu đỉnh, lấy hình tượng cửa thành khắc lên Nghị đỉnh.”

                                                 Dấu tích Cửa Tấn Lệ (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Năm Thiệu Trị thứ nhì, xa giá Bắc tuần, qua Quảng Bình Quan, nhà vua có thơ ngự chế chạm vào đá, sai dựng nhà bia ở bên ngoài cửa thành để lưu niệm.
Ngày nay Quảng Bình Quan đã được trùng tu tôn tạo lại đẹp đẽ, uy nghi ngay cạnh quốc lộ 1A qua trung tâm thành phố (đường Quang Trung) cách Cầu Dài chừng vài trăm mét về phía Bắc. Quảng Bình Quan là di tích lịch sử hàng đầu của Quảng Bình không dùng để qua lại mà dành cho du khách chiêm ngưỡng.
Lũy Trường Sa
Năm 1634, Chúa Nguyễn lại sai tướng Nguyễn Hữu Dật tổ chức đắp lũy Trường Sa (Lũy Đồng Hới), dài 7 cây số chạy dọc ven biển, từ Sa Động xã Hải Ninh (huyện Quảng Ninh) đến Huân Cát (Bảo Ninh hữu ngạn sông Nhật Lệ ngày nay).
Hệ thống này gồm bốn tòa lũy, trong đó hai lũy Nhật Lệ và Trường Dục được xây trong giai đoạn 1630-1631 dưới sự chỉ huy của Đào Duy Từ, còn hai lũy kia do học trò của ông là tướng Nguyễn Hữu Dật thực hiện (1634, 1661).
Trong suốt cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn, lũy Đào Duy Từ đã phải chống trả nhiều cuộc tấn công ác liệt từ Đàng Ngoài của quân Trịnh và chưa bao giờ bị thất, ngược lại đã giáng cho quân Trịnh nhiều đòn đau.
Năm 1633, chúa Trịnh Tráng kéo quân đến cửa biển Nhật Lệ dàn trận, bị quân chúa Phúc Nguyên đánh cho đại bại, quân Trịnh hoảng loạn vứt bỏ xe pháo chạy về Bắc.
Năm 1648, chúa Trịnh Tráng lại sai Lê Văn Hiểu đem quân tấn công phục thù, quân Nguyễn do cha con Trương Phúc Phấn chỉ huy cố thủ tại lũy Trường Dục. Thế tử Phúc Tần và Nguyễn Hữu Tiến mang quân ra Quảng Bình cứu viện và đã đánh tan quân Trịnh. Quân Trịnh thua to: ba tướng cao cấp và 3,000 lính bị bắt làm tù binh.


                                    Võ Thắng Quan (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Năm 1672, chúa Trịnh Tạc lại dồn toàn lực đánh vào Đàng Trong sau khi đã diệt được họ Mạc ở Cao Bằng (1667). Trịnh Căn chỉ huy thủy binh, Lê Thì Hiến bộ binh. Với lực lượng hùng hậu như thế, quân Trịnh đã tiến đánh vào lũy Nhật Lệ do Nguyễn Hữu Hiệp chỉ huy, cùng nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức ra chống cự, chúa Phúc Tần đích thân tiếp ứng. Đây là trận giao chiến ác liệt nhất trong lịch sử Trịnh Nguyễn phân tranh. Quân Trịnh dồn toàn lực, đánh lũy mấy lần vẫn không hạ được Nguyễn Hữu Dật đành phải rút về Bắc Bố Chính.
Vua Thiệu Trị đi qua hệ thống Lũy Thầy hùng vỹ này rất khâm phục trước công lao Tổ Tiên, đã ban cho lũy này tên mới là "Định Bắc trường thành" (bức tường thành giữ yên mặt Bắc).
Mới đây tình cờ đọc được bài viết về Lũy Thấy trên báo Giáo Dục online (Thứ Ba, 5 Tháng tư 2011) có bài nói về Lũy Thầy làm tôi vui bất ngờ.
“Lũy Thầy - 400 năm còn một chút này,” trong bài có đoạn: “Đến năm 1994, Lũy Thầy được phục hồi lại nguyên trạng và Quảng Bình Quan đã được Nhà nước công nhận là di tích Quốc gia vào năm 1992. Ban đêm, đèn thắp sáng, nhìn Quảng Bình Quan rất đẹp...”
Đồng Hới Quảng Bình không lạ gì đối với tôi, do là nơi chôn nhau cắt rốn nên khi có diều kiện trở lại quê nhà, tôi đã đi thăm, tìm hiểu gốc gác của mình khá nhiều: Núi Thần Đinh, Suối Bang, thành Kẻ Hạ, Bơi đua Kiến Giang, Ghềnh Đá Nhảy, Linh Miếu Cảnh Dương, động Phong Nha, động Thiên Đường và tất nhiên không thể thiếu Định Bắc Trường Thành, một hệ thống chiến lũy được gọi với tên thân mật là Lũy Thầy.

                                           Lũy thầy ngay nay (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Năm 2002, tôi nhờ anh bạn nhiếp ảnh, anh Võ Hữu Ngụ đưa đi xem những gì Lũy Thầy còn lại. Tôi theo anh quanh co qua mấy đường làng, qua một cầu sắt, đến một đường đê cao hơn mặt ruộng chừng 1 mét, rộng cũng bấy nhiêu, cây bạch đàn um tùm. Dừng lại, anh cho biết đây là một đoạn của Lũy Thầy. Tôi thật không ngờ, ngày xưa lũy cao 3m, mặt rộng 6m, bây giờ không hơn gì bờ ruộng và rồi ngày càng teo do người dân xén bớt dần. Đi về hướng Tây một đoạn, gặp một cổng thành thật xưa, rêu đã phủ đen, anh Ngụ bảo “đây là Võ Thắng Quan,” một trong ba cửa của Lũy Thầy. Cổng trông cũng còn vững chắc, tuy nhiên, gạch hai bên đã bị gỡ khá nhiều. Hỏi chuyện bác nông dân gần đấy, bác cho biết đêm bác ra ngủ canh ở đây. Bác nói gạch bị gỡ là do ngày Tết dân chúng lấy về làm bếp nấu bánh tét.(!)
Sau đó tôi trở lại Đồng Hới tìm “cửa Tấn Nhật Lệ.”


                               Lũy Thầy dọc bờ Nam sông Long Đại (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Theo một số tài liệu thì “cửa Tấn Nhật Lệ” nằm trên đường Quách Xuân Kỳ, thực tế là ở đầu ngỏ 77 đường Trương Pháp. Đây chỉ là một ngọn đồi cao cây xanh phủ kín. Trên đỉnh đồi có tháp hải đăng. Thử xem “di tích” còn gì thì thấy toàn công trình mới xây. Mấy bậc cấp lên đồi trơ gạch cũ, nhưng cũng không chắc dấu tích của thành lũy xưa. Dưới chân đồi, sát lề đường có bia ghi: “Phòng tuyến Nhật Lệ được xây dựng vào năm 1631 có chiều dài 12km, cao 6m, rộng 6m thuộc hệ thống lũy Đào Duy Từ.
Nơi đây đã từng diễn ra các cuộc giao tranh quyết liệt của hai thế lực Phong Kiến Trịnh Nguyễn trong gần 50 năm của cuộc nội chiến.”(10)
Hỏi bạn, “Lũy Thầy được phục hồi lại nguyên trạng” chỗ nào, anh bảo “phục hồi gì đâu, chắp vá lại Quảng Bình Quan thì có.”
Với lịch sử, Đào Duy Từ là một thiên tài không những về thao lược quân sự mà ông còn là bậc uyên bác về thơ ca nhã nhạc. Những công trình và những tác phẩm của ông người đời sẽ tôn vinh nhớ mãi. Điều ai cũng thấy là ông có thực tài, tài ông vượt hẳn trên mọi người, phường đối nghịch cũng phải khâm phục. Không như kẻ vô tài bất tướng, bằng cấp “dỏm giả,” tiền nhiều chức lớn, nắm quyền chỉ để bức hiếp dân lành.
                                          Quảng Bình Quan (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Ngày nay, Lũy Thầy không còn nguyên vẹn như thời xưa, nhiều đoạn đã bị mất hẳn do thời gian bào mòn và chiến tranh tàn phá, và do chính chúng ta, nhiều thế hệ đi qua không biết bảo tồn, ngược lại, phá của công làm của tư. Với nền giáo dục hiện nay (hồng hơn chuyên) thì rồi những “di tích trong sách đỏ” sẽ biến mất một ngày không xa.
Trần Công Nhung (2015)

Cồn Hến

Nhìn về Cồn Hến (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Nếu kẽ một trục thẳng đứng từ cầu Bạch Hổ về Thuận An thì cồn Dã Viên nằm đầu trên – cồn Hến ở điểm trung tâm - cồn Tè cuối cùng.
Trong ba cồn, cồn Hến là phần đất được hình thành từ nhiều trăm năm trước do dòng chảy của Hương giang bồi dần. Trước khi đi thăm Cồn Hến, thử xem qua tài liệu xưa nay nói về Cồn Hến ra sao.
Cồn Hến có hình dài theo hướng Đông Tây, gần như chính giữa dòng sông. Khởi nguồn chỉ là bãi đất bồi, qua thời gian, Cồn Hến trở thành cồn, một vùng đất cao, cây cối phát sinh, chim muông kéo về trú ngụ, cá tôm sinh sản. Cũng bởi cồn do bồi lấp mà thành nên về sau có tên là làng Bồi Thành, diện tích 26.4ha.(3)
Lúc vua Gia Long xây dựng kinh thành (1803) theo thuật phong thủy, Cồn Hến là yếu tố Thanh Long (Rồng xanh) - nằm bên trái, trước Kinh thành cùng với cồn Dã Viên là yếu tố Bạch Hổ (cọp trắng), nằm bên phải, tạo thành thế Hữu Bạch Hổ Tả Thanh Long với ý nghĩa đôi Linh vật chầu hai bên tả hữu Hoàng thành.

Dụng cụ cào hến (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Tám xã trong phạm vi nội thành phải di dời.(4) Nhà vua cấp tiền cho dân mua đất hoặc trưng đất lập xã mới.(5) Cồn Hến được chọn là nơi tái định cư dân xã Phú Xuân. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân họ Trần, Lê và Nguyễn được chuyển đến sống chung ở Cồn Hến.
Sau khi có người sinh sống ở Cồn Hến, mọi thứ nơi đây trở nên sôi động hơn. Cư dân đêm đi soi cá ngày cào hến, xúc tôm cua. Đó là cách họ sinh sống trên Cồn Hến lúc bấy giờ. Hiện nay, Cồn Hến có khoảng 700 gia đình, 5,000 dân thuộc phường Vỹ Dạ, thành phố Huế. Người dân nơi đây nói rằng ngày xưa, hến là đặc sản tiến vua vào mỗi dịp lễ, Tết. Đời vua Thiệu Trị, hến được người dân đem bán quanh nội thành và trở thành món ăn nhiều người ưa thích. Một hôm, đầu bếp đã làm dâng vua một món ăn khác lạ. Vua Thiệu Trị nếm thử, khen ngon, hỏi về lai lịch món này, nhà bếp tâu rằng, do dân Cồn Hến làm ra.
Ngạc nhiên về món ăn đặc biệt, vua lệnh cho lính đưa ông ra du ngoạn Cồn Hến. Từ đó, Vua cũng có những ưu tiên đặc biệt cho người dân sinh sống ở đây, đồng thời khuyến khích người dân bắt hến để dùng trong các bữa ăn như là đặc sản của đất kinh thành. Từ đó, hến là món ăn thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày của các bậc vua chúa và quần thần nội cung.
Bến tắm giặt (Trần Công Nhung/Viễn Đông)



Biết việc cào, bắt hến vô cùng cực nhọc, nhà vua đã có chỉ dụ miễn thuế cho nghề cào hến. Đây cũng là một trong những nghề hiếm hoi không phải nạp thuế cho triều đình thời bấy giờ.
Cồn Hến trong dân gian còn có giai thoại: chuyện tình của đôi nam nữ thuộc dòng dõi vua chúa đã khai sinh ra xứ (cồn) tình yêu.(6)
Chùa Pháp Hải (Trần Công Nhung/Viễn Đông)



Xưa kia Cồn Hến không một bóng người, chỉ có cây cối um tùm, muông thú sinh sản. Bỗng một ngày kia, bà chúa Hoàng (người ở xã Diên Đại, huyện Phú Vang) du ngoạn trên sông Hương, khám phá giữa sông một cồn cát tuyệt đẹp, phong cảnh nên thơ, bà liền ghé vào vãn cảnh. Mê cảnh hữu tình bà thường đến cồn dạo chơi. Về sau bà kết hôn với một người họ Nguyễn, thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725-1738) xây dựng phủ chúa ở Phú Xuân. Nhưng do bị ám ảnh bởi vẻ đẹp thơ mộng của xứ thần tiên giữa sông nước, nên hai vợ chồng quyết định đến dựng chòi trên cồn cát này sinh sống.
Không có sách sử nào ghi cuộc sống của hai vợ chồng này cuối đời ra sao, nhưng dân gian truyền rằng, ban đầu họ sống với chim muông, lấy thức ăn từ sông. Họ trồng rau, quả để dùng hàng ngày. Họ sinh con và sống hạnh phúc với nhau đến đầu bạc răng long. Đó là người đầu tiên khai khẩn Cồn Hến.
Theo sử thì có một nhân vật khác khai canh Cồn Hến. Vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725-1738), có ông Huỳnh Tương (xã Diên Đại, Phú Vang) được coi là người đầu tiên đến dựng chòi ở làm nghề cào hến. Qua thời Gia Long (1802-1820), phường Giang Hến, thuộc xã Phú Xuân ra đời trên “xứ cồn cạn.” Tên Cồn Hến bắt đầu từ đó.

Miếu thờ Mẫu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)



Thăm Cồn Hến không khó, từ trung tâm thành phố Huế theo đường Lê Lợi về Vỹ Dạ qua đập đá là đường Nguyễn Sinh Cung (Thuận An cũ), đến đầu chợ Vỹ Dạ rẽ trái qua cầu Phú Lưu là vô Cồn Hến. Cầu này có trước năm 1975, cầu hẹp chừng 3m, vài cầu, thành cầu bằng sắt, mặt cầu lót ván, nay đã đổ xi măng. Từ cầu chạy thẳng đường xuống là bến đò ngang, đò qua bờ bên kia, khu phố cổ Chi Lăng. Ngày nay, bên kia bờ là một làng thuyền Rồng đậu san sát để phục vụ khách ăn nhậu. Con đường mới mở dọc bờ sông, đường Trịnh Công Sơn, từ cầu Gia Hội về bến đò Cồn, như là một công viên (hoa lá cành), nhưng người dân trưng dụng dọn bàn ghế bán giải khát. Khách sang thì đặt món rồi xuống thuyền Rồng.
Cồn Hến chỉ có con đường lớn độc nhất mang tên nhà thơ tiền chiến Ưng Bình,(7) những đường còn lại đều là Kiệt.
Bến đò (Trần Công Nhung/Viễn Đông)



Mặc dù có diện tích không lớn, nhưng Cồn Hến có nhiều cơ sở tín ngưỡng - tâm linh: đình làng, miếu thờ Mẫu, Âm Linh Tự, chùa Thầy, chùa Cô và nhà thờ Tân Thủy.
Đường Ưng Bình là đường chính chia đôi Cồn Hến theo chiều ngang. Những con đường nhỏ khác: dọc, ngang nối với trục đường chính qua các xóm gọi là kiệt (ngõ) mang số thứ tự: kiệt 1, kiệt 2 …
Đầu đường Ưng Bình có kiệt 12, rẽ vào chùa Pháp Hải. Đối với một địa phương 700 dân, chùa Pháp Hải là khá lớn. Chùa mái hai tầng, lợp ngói liệt. Chánh điện ba gian cửa gỗ bàn khoa. Chùa đang xây thêm tòa nhà 2 tầng bên cánh phải, theo mô hình dựng trước thềm chùa, có lẽ đây là trường học hoặc nơi vãng lai, tạm trú cho Tăng Ni hoặc bá tánh nơi xa về thăm chùa. Chùa Pháp Hải còn có tên “chùa Thầy” gọi theo kiểu dân gian, chùa dành cho chư Tăng.
Trước cổng có hồ rộng bằng mặt tiền của chùa nhưng khô nước. Bên kia hồ có vườn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm đang chỉnh trang. Tượng Bồ Tát cao trên 3m dựng trên tòa sen và đế xây lục giác cao trên 2m. Chân đế có câu chữ Hán:
“Khổ hải thường tác độ nhân chu”
(Bể khổ thường tạo ra chiếc thuyền để cứu giúp người)
Chùa trước kia gọi là Diệu Minh, do ngài Trí Uyên, tự là Đạo Nguyên lập ra năm 1932. Thầy Trí Uyên là đệ tử chùa Trà Am.(8) Năm 1964 thầy Đức Tâm cùng với Phật tử Bồi Thành đã tôn tạo và đổi tên thành chùa Pháp Hải. Thầy Đức Tâm cùng với đệ tử của ngài Trí Thủ, thuộc dòng thiền Liễu Quán đời thứ 10. Thầy là một trong những vị sáng lập Gia Đình Phật tử Hóa Phổ, và là thư ký của nguyệt san Liên Hoa. Năm 1954 thầy là trụ trì chùa Diệu Đế. Thầy được Bổn sư trao kệ đắc pháp năm 1973. Thầy viên tịch năm 1988.
Đường Ưng Bình xuống bến đò có ba miếu lớn nhỏ liên tiếp, không rõ thờ ai. Tôi hỏi bà già bán hàng bên đường, bà đưa tay chỉ: “cấy nớ Đình Làng, cấy ni Miếu thờ Mẫu, cấy tê Âm Linh Tự.” Đơn giản thế thôi, bà còn lo cho mấy cậu học trò trường Phú Lưu đang bu quanh.

Cầu chợ Dinh nhìn lên Cồn Hến (như quả tim). (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Đình làng có hai cổng, cổng ngoài bỏ ngõ, trong sân trồng nhiều cây soan (sầu đông), cổng trong xây trụ cao có xà ngang đắp mái giả, có lưỡng long tranh châu. Hai trụ cổng có hai câu đối chữ Hán. Trong cổng là bình phong nhỏ hoa văn sơ sài. Sân trong của đình để trống, bên góc trái có cây sanh lâu năm rủ bóng. Đình một gian hai chái, cửa bàn khoa khóa kín, vắng người. Trái với cổng, nội ngoại thất của đình, trang trí rất đơn sơ. Bên trong đình, khám thờ đều xây bệ, gian giữa, phía trước bệ cao, có bát nhang, chân đèn, bình hoa, chén nước, tương đối đầy đủ trang nghiêm. Sát vách trong, cũng 3 bệ thờ, bệ gian giữa cao hơn bệ ở hai chái, nhưng đồ tế tự thì khiêm nhường hơn. Vẻ lạnh lẽo của quang cảnh chung, cho thấy đã lâu lắm đình không có lễ lạc gì và cũng không ai thăm chừng hương khói, khác với chùa.
Cạnh đình là miếu thờ Mẫu, cảnh còn hoang vắng hơn. Ngoài ngôi miếu chính còn 3 am nhỏ trước sân, không hương khói, dấu bụi thời gian phủ gần nửa chân tường. Chẳng bù với lối thờ Mẫu xứ Bắc, nơi đâu cũng sáng sủa trang trọng.
Kế bên là Âm Linh Tự, cũng nằm trong khuôn viên riêng có tường xây, đơn giản và nhỏ hơn. Miếu xây có mái tuy nhiên bệ thờ sơ sài và bốn bên vách trống.
Xuống bến đò, không thấy ai đợi đò qua sông, chỉ có hai cô nữ sinh áo trắng đứng ngắm cảnh, tôi nhờ làm mẫu bấm tấm hình. Hỏi ra, bến nay chỉ để giặt rửa, “năm thì mười họa” mới có người thuê đò sang ngang, hoặc ghe thuyền Quảng Trị vô bán hến. Dọc bờ sông, nhà nào cũng che một túp lều làm nhà kho chứa đồ linh tinh, tệ hại nhất là rác rến bừa bãi đổ từ trên bờ xuống sông, rất mất vệ sinh. Nghĩ thật phí, trước mặt nhà nào cũng có lũy tre, có bến sông, tại sao không dựng một nhà sàn cạnh bến để hưởng gió mát, ngắm trăng thanh, nhất là những ngày hè oi bức! Đến cuối đường, có hai cô giặt đồ dưới bến, xa xa hai người đang xúc hến, cảnh thanh nhàn và đẹp dân dã. Một người đàn ông vác cần câu đi tới, thấy tôi mang máy ảnh là “ca” ngay bài “sao mà khổ”. “Khổ quá chú ơi, không có chi làm, câu bậy vài con cá nấu canh, chớ có sướng chi mô”.

                                            Chùa Ni Hương Lưu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Vừa lúc một bà già trong nhà bước ra, anh câu lại tiếp, “Chú chụp cho mệ nớ tấm hình, mệ khổ lắm đọ.” Tôi hỏi chuyện bà già, bà thổ lộ một hơi, “Một mình tui ở cái nhà rứa đọ chớ mà khổ lắm chú ơi. Một mẹ nuôi 9 đứa con, chừ 9 con không đứa mô nuôi mẹ. Răng mà khổ ri chú hè”!
Tôi kiếm lời an ủi bà cụ, “Chừ có ai sướng mô mệ, ngoài quan quyền, đại gia thì ai cũng khổ, mà khổ nhiều thứ lắm, mệ ri là cũng may rồi. Mệ khôông nghe người kêu mất nhà, kẻ kêu mất đất đó na.” Về những vùng dân quê nghèo nàn, ai gặp tôi cũng muốn thở than gởi gắm đôi điều (tưởng tôi là nhà báo).
Tôi tìm cách rút lui nhanh, không thì đổ nợ vì chuyện kể khổ với giãi bày, mà chẳng ăn giải gì. Tôi chạy ngược về xóm trên tìm nhà thờ Tân Thủy và chùa Ni Hương Lưu.
Một người đàn ông đang đút cơm cho con bên đường, dưới bóng tre xanh, tôi dừng xe hỏi chuyện:
- Nghe nói Cồn Hến sẽ giải tỏa làm khu du lịch, anh biết không?
- Cấy nớ nói đã lâu mà sáu, bảy năm ni chộ chi mô. Nhưng bà con cũng khôông dám xây cất chi lớn, sợ thình lình phải đi thì mất của.
- Nghề cào Hến bựa ni cũng còn tiếp anh hỉ?
- Dạ mà ít lắm người ta mua hến Quảng Trị chở vô, vì cào hến chỗ ni chừ hao công lỗ tiền dầu không có ăn. Hến Quảng Trị chở đò vô chỗ cầu Phú Lưu hoặc cập vô chỗ bến đò rồi nhà lò tới mua, một bao 200 ngàn.
- Nghe nói Cồn Hến còn có nhà thờ Tân Thủy và chùa Ni chỗ mô anh chỉ giùm?
- Chú chạy đường ni lên tuốt đầu trên làng Trung Giang, có nhà thờ Đạo, gần đó có chùa Ni Hương Lưu.
Nhà thờ Tân Thủy nằm đầu kiệt 47, gần mút Cồn Hến, nhìn ra sông hương. Giáo xứ Tân Thủy thuộc Tổng giáo phận Huế, thành lập từ năm 1896 và được xây năm 2002. Giáo dân Cồn Hến có khoảng hơn 300. Giáo đường đóng cửa, trẻ nhỏ chơi đùa thoải mái trước thềm. Nhìn vách tường bên ngoài, nhà thờ rêu phong cũ kỹ, tưởng chừng lâu lắm chưa được sơn sửa.

                                          Nhà thờ Tân Thủy (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Chỉ mấy bước qua Niệm Phật Đường Hương Lưu. Chùa cũng vắng hoe, cửa đóng then cài. Cổng tam quan vào chùa bốn trụ xây, cửa sắt, cổng không mái như những tam quan thường thấy. Bốn trụ tô điểm đơn giản, có hai câu đối chữ quốc ngữ, viết kiểu chữ triện tròn, rất khó đọc. Chùa có vẻ mới mẻ hoàn toàn, nhất là đài Quan Âm Bồ Tát khá lớn trong nhà lục giác cột đắp long giáng màu xanh, nổi rõ trên nền đen.
Trở lại nghề cào hến, theo tin báo, một trong những nguyên nhân làm cho nghề Hến ở địa phương mai một dần là do nạn khai thác cát trái phép bừa bãi dưới đáy sông. Sà lan, đò máy dùng bơm rút cát, đục, khoét đáy sông khiến lòng sông bị thương nặng, loang lổ hàng trăm hố trũng chỗ lõm, chỗ lồi. Trung bình mỗi ngày ước tính có khi một sà lan tận thu hơn 400m3 cát, làm ảnh hưởng đến lòng sông, ... khiến cho hến và nhiều loài thủy sản hao dần cạn kiệt. Dân Cồn Hến mấy trăm năm sinh sống nhờ cào hến để bán hoặc chế các món ăn. Nay hến không còn, chuyển qua nghề gì cũng khó. Lớp trẻ nhờ học hành bươn bả ra ngoài làm ăn, người lớn tuổi có thứ gì khác trên cồn Hến nhỏ bé này. Vì vậy các lò phải mua Hến các nơi khác.
Muốn có hến để bán hoặc làm cơm hến, trước tiên ngâm hến trong nước gạo một thời gian để thải hết bùn đất, rửa sạch, đem luộc cho đến khi hến hả miệng. Giữ nước luộc sau khi đã lắng cặn, đổ hến ra sàng để lấy thịt hến. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra còn gia vị và nhiều thứ đi kèm.
Thành phần một tô cơm hến: cơm trắng để nguội, khế chua, rau thơm, bạc hà (dọc mùng), bắp chuối thái chỉ, nước mắm, hồ tiêu, hành phi, muối mè, tương ớt, tóp mỡ, da heo chiên phồng, mắm ruốc, đậu phụng chiên dầu nguyên hạt, ớt bột tao dầu. Tất cả đều để nguội, riêng nước hến phải được giữ cho nóng sôi. Bát cơm hến được trộn từ tất cả các thành phần trên rồi chan nước hến. Cơm hến thường được ăn với ớt thật cay mới đúng điệu; còn đối với bún hến thì có lẽ sẽ ngon hơn nếu ăn khô (không chan nước khi ăn).


                                          Cơm hến (gánh) (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Mỗi thứ một chút nhưng khi pha trộn vào nhau lại tạo ra hương vị đặc biệt thơm ngon béo bùi... khó tả. Có thể nói cơm hến là món ăn cay nhất trong ẩm thực Huế. Ăn vừa hít hà, cay toát mồ hôi chảy nước mắt. Với người Huế như vậy mới đã, mới thấm. Người không sành, không thấy ngon còn cho là "ăn chi mà khổ rứa."
Món ăn bình dị của người dân lao động như thế lại trở thành món đặc sản chính thống của xứ “Cồn Cạn” nhỏ bé nằm giữa dòng Hương giang hiền hòa. Người ở xa nghe gọi “cơm hến Huế,” nói thế chưa đúng hẳn, phải nói cơm hến bên Cồn, cơm hến cồn Hến mới “chính danh.” Một bạn sành điệu của xứ kinh kỳ khẳng định “Cơm hến Huế mà ăn tại Bao Vinh, An Cựu hay ngay cả trong Thành Nội thì cũng chẳng khác gì xem những tác phẩm nghệ thuật của bậc thầy bị sao chép lại.” Ái chà, tinh tế đến vậy sao!
Công bằng mà xét, đúng là để có một bát cơm hến “chính thống” quả là cầu kỳ nhiêu khê, quá nhiều thành phần, nhiều yếu tố, nếu không chuyên nghiệp thì khó mà “pha chế” thành. Tôi nghĩ, không chỉ đôi bàn tay chuyên nghiệp, còn phải có tấm lòng say mê công việc của mình, dù “tác phẩm” chỉ là bát cơm hến mà trong chốc lát, thực khách sẽ mang đi xa.
Cơm hến ăn hoài không chán cũng nhờ hương vị riêng biệt như đã nói, người dân lao động Huế xưa và cả bậc vua chúa, đều cho món cơm hến đã ngon miệng lại còn là món ăn dinh dưỡng thiết thực nữa. Có hai món cơm hến: khô và nước để tùy thực khách chọn. Cơm hến nước là chan luôn nước luộc hến vào cơm hến, cơm hến khô là nước hến để riêng, ăn cơm hến xong mới húp, hoặc húp nước hến trong khi ăn, như cách ăn hủ tiếu khô. Có thể nói, người dân Huế rất biết đổi món, đổi khẩu vị liên tục để tạo ra sự mới lạ khiến thực khách ăn hoài không chán.


                                                   Chè bắp (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Ăn cơm hến bên Cồn ngon hơn nơi nào hết cũng còn do yếu tố ngoại cảnh. Chiều mùa hạ ngồi quán bên sông, vừa thưởng thức món đặc sản, vừa ngắm dòng sông nước lững lờ. Rồi như văng vẳng có ai ngâm thơ Hàn Mặc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(thơ Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vỹ Dạ)
Rõ là thú vị hơn ngồi trong quán nóng bức, ồn ào, người vào kẻ ra.
Những ai không có thì giờ qua Cồn Hến hay đến quán thì đã có mấy o gánh hến đi khắp các ngả đường cất tiếng rao "hến khô... ông," hình ảnh, âm điệu quen thuộc mà người Huế đi xa không thể nào quên, tương tự tiếng “mì gõ” của người Sài Gòn vậy.
Nhưng Cồn Hến không chỉ có cơm Hến mới là món đặc sản, chè bắp “bên cồn” cũng là món ngon nơi khác khó bì. Chè bắp nổi tiếng ở Cồn Hến cũng do chỗ bắp trồng tại cồn. Đất cồn là đất phù sa qua hàng trăm năm, đất màu mỡ rất tốt cho bắp. Bắp cồn không những trái lớn hột đều mà còn dẻo, thơm. Hoa bắp cồn Hến Vỹ Dạ cũng thi vị không kém:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
(thơ Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vỹ Dạ)


                                              Quán cơm hến (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Chè bắp phải là bắp trồng ngay ở bãi phù sa quanh cồn. Lấy bắp non về nạo thành bột mịn, nấu với đường. Múc chè ra bát, cho thêm vào vài muỗng nước cốt dừa trắng như sữa, thơm lừng. Chè nấu đã ngọt sẵn, khi ăn có thể bỏ thêm đá bào. Trước đây, chè thường múc ra bát nhỏ nhưng bây giờ đã thay bằng loại ly lớn. Bưng ly chè trên tay, nhìn sắc màu vàng mơ tươi sáng của hạt bắp cồn, vị thơm ngọt của bắp, vị béo của nước cốt dừa hòa quyện với nhau, là đã thấy hấp dẫn, ăn mấy cũng không chán.
Ở Huế, chè bắp có bán nhiều nơi nhưng ngon nhất vẫn là tại cồn Hến. Cồn Hến bốn mùa cây trái tốt tươi, được nuôi dưỡng bằng phù sa đất mẹ nên hến hay bắp cũng đều đặc biệt hơn nơi khác. Người dân Cồn trồng bắp gần như quanh năm (trừ ba tháng lũ lụt).
Nấu chè bắp là bí quyết riêng của người cồn Hến, nơi khác nấu không thể sánh được. Chính vì vậy, ai đã từng một lần thưởng thức món chè bắp Cồn Hến thì nhớ mãi không quên.
Ngoài hai món đặc sản độc đáo: cơm hến và chè bắp, người dân Cồn còn các món quen thuộc của Huế như: bánh bèo, nậm, lọc... Nói chung là “nghề” người dân Cồn Hến rất khiêm nhường, ít vốn, bằng tất cả tấm lòng phục vụ khách, chỉ để sống qua ngày.


                                       Quán vắng khách. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


“Đặc sản quê hương” là thứ thuộc về “quốc hồn quốc túy,” đương nhiên phải được trân trọng giữ gìn. Thế nên qua “văn thơ” các món ăn đặc biệt như cơm hến xứ Cồn được bao nhiêu người tán thưởng. Tuy nhiên với tôi, xem cho biết, viết cho vui chứ thực tế là “kính nhi viễn chi.”
Điều rõ ràng là VN ngày nay, từ con người đến con vật... hoa lá cỏ cây đều bị nhiễm độc. Cứ xem TVT/chuyển động 24, cứ vào bệnh viện... sẽ thấy nỗi bất hạnh của đất nước như thế nào. Công nhân ăn trưa xong là lăn ra bất tỉnh, trẻ mẫu giáo ăn xong đưa đi bệnh viện cấp cứu, công trình xây dựng đang dang dở thì, cầu sập, cần cẩu đổ chết người. Một sáng đẹp trời, bỗng dưng cá chết trắng sông.... Một đất nước mục rã như con bệnh trầm kha.
Nhưng chẳng hề gì, mọi người cứ mua bán, cứ ăn chơi, cứ “ôi biết mấy tự hào”! Không tự hào sao được! Ai có tượng “Mẹ anh hùng,” ai có “Lê Văn Tám,” ai có “Hà Nội nghìn năm thăng Long,” v.v.. Không gì cũng cứ tự hào cho (tự) sướng. Một “quan chức” đã trả lời khi được hỏi “đốt pháo bông tốn bạc tỉ, sao không dành tiền giúp nhà nghèo”?
“Nhà nghèo cũng cần xem pháo bông để thư giãn chứ” (!!!). Mà có thế thật, mải ngắm pháo bông cũng quên đói chốc lát, như một xứ ở châu Phi không có gì ăn hút thuốc phiện cho quên đói.

TRẦN CÔNG NHUNG