Wednesday, January 20, 2016

Cầu cổ London và thị trấn Laughlin

Tiểu bang sa mạc Arizona ngoài đại vực Grand Canyon sâu thẳm, Sedona núi đá đỏ còn có nhiều địa điểm du lịch khác nữa tuy không có thắng cảnh thiên nhiên hoành tráng nhưng cũng thu hút du khách đến chơi trong những kỳ nghỉ lễ.



Cây cầu cổ bằng đá London Bridge ở Lake Havasu, Arizona.



Như từ Sedona theo con đường 89A đi về hướng Nam 30 miles du khách sẽ gặp thị trấn Jerome nằm vắt vẻo trên sườn núi mà xe lên phải qua con đường chữ chi với những khúc quanh “cùi chỏ” rất lý thú ngoạn mục. Du khách dừng chân lại đây ăn bữa trưa với những món Mỹ hay Mễ Tây Cơ rồi lại tiếp tục xuống núi đi về thị trấn nghỉ mát Prescott cũng 30 miles trên con đường 89A về hướng Tây Nam. Phố núi Prescott nằm trên cao nguyên 5,354 feet còn cách Phoenix 100 miles. Năm 1863 khi Arizona sát nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ, Prescott được chọn làm thủ đô của vùng đất mới này. Về sau thủ phủ Arizona di chuyển về Tucson rồi Phoenix nên Prescott không phát triển gì thêm, ngày nay còn lại những tòa nhà cổ có kiến trúc Anh mà xưa kia là những cơ quan chính quyền được bảo tồn để du khách thăm viếng, sống lại thời kỳ đi tìm vàng với những tay cao bồi chọc trời khuấy nước.

Nếu du khách còn những ngày nghỉ rong chơi không muốn trở về Phoenix sa mạc giá lạnh thì lái xe ngược lên hướng Bắc bằng con đường 89 rồi đổi qua 40 West để ngang qua thành phố Kingman nhiều thông xanh rồi cũng theo 40 West đi 30 miles rẽ vào con đường nhỏ mang số 95 về hướng Nam để đến Lake Havasu City.
Lake Havasu City với cây cầu London
Tên gọi là cầu London nhưng cầu này không còn ở London nữa mà đã được di dời về biên giới giữa California và Arizona của nước Mỹ và bắc ngang dòng sông Colorado ở hồ Havasu. Sông Colorado phát nguyên trên vùng núi tuyết miền Bắc tiểu bang Colorado chảy ngoằn ngoèo theo hướng Tây Nam dài hơn 1,400 miles qua Grand Canyon rồi đổ vào hồ Lake Mead. Sau khi tràn ra khỏi hồ bằng đập nước vĩ đại Hoover Dam, dòng sông trở nên hiền hòa chảy về hướng Nam và đến đây sông mở rộng nên được gọi là hồ Havasu. Hồ Havasu du khách chơi thuyền rất đông cũng như những trò chơi trên nước như trượt nước hay mang dù bay bổng lên trời do ca nô kéo. Thành phố Lake Havasu City thuộc tiểu bang Arizona nhưng bờ bên kia sông lại thuộc California, ngày nay thành phố quy tụ những người Mỹ về hưu về đây sinh sống. Họ cho rằng giá nhà rẻ, không khí trong lành không ô nhiễm tuy rằng khí hậu nơi đây nóng vào mùa Hè là vì vùng sa mạc nhưng gần hồ nên cũng không đến nỗi nào!


Sòng bài Colorado Bells bên bờ sông Colorado ở Laughlin, Nevada.
Cầu London du khách tấp nập đông vui nhất là phía dưới chân cầu nơi đây có thể chụp những tấm hình thấy dòng sông xanh và chiếc cầu cổ theo kiểu Âu Châu ở hậu cảnh. Những cửa hàng bán đồ kỷ niệm, tranh ảnh, băng dĩa hoạt động rất huyên náo và những khách sạn nhà hàng ăn người ta tổ chức những tiệc cưới, chú rể trong tuxedo, cô dâu trong những chiếc áo cưới xúng xính đứng chụp những tấm hình kỷ niệm ngày cưới.
Hồ Havasu trở thành địa điểm du lịch là nhờ cây cầu London, nguyên thủy cây cầu bằng đá này bắc ngang sông Thames ở thủ đô Anh Quốc đã có hàng trăm năm. Giữa thập niên 1960 do nhu cầu giao thông phát triển, chánh quyền thành phố London muốn phá cây cầu đi để xây cầu mới rộng và vững chắc hơn. Nhằm bảo tồn một di tích cổ nên một người Mỹ tên Robert McCulloch quyết định mua lại chiếc cầu đá này với giá 2 triệu rưỡi đô la. Ông muốn chở về để dựng lại ở nước Mỹ và chính quyền vùng hồ Havasu đồng ý cho ông dựng lại chiếc cầu cũ ở đây, không nhằm vào mục đích giao thông xe cộ mà chỉ dùng làm cảnh, bắc từ bờ sang một đảo nhỏ giữa hồ và dưới chân cầu người ta xây một làng du lịch lấy tên là làng Ăng Lê (English Village) với kiến trúc và vườn cảnh theo kiểu Anh quốc. Ðể chở từ Anh Quốc về Mỹ, ông McCulloch thuê người ta tháo chiếc cầu ra thành những khối đá tổng cộng nặng trên 10,000 tấn rồi chuyên chở bằng tàu vượt Ðại Tây Dương và Thái Bình Dương về hải cảng Long Beach ở California. Sau đó đưa lên xe vận tải chở tiếp về đây và dựng lên năm 1968 và khu du lịch này hoàn thành năm 1971. Từ đó thu hút du khách về chơi ở đây rất đông đứng hạng nhì của tiểu bang Arizona chỉ sau Grand Canyon mà thôi. Chụp hình ở đây với chiếc cầu phía sau người xem ngỡ rằng cảnh ở Âu Châu!
Nhằm thu hút du khách về chơi, thành phố Lake Havasu tổ chức lễ hội quanh năm như chợ trời suốt ngày Chủ Nhật từ tháng 9 cho đến Tháng Năm, triển lãm các loại thủy phi cơ cổ điển, đua xe, hội chợ các loại khoáng sản, đá quý, nữ trang. Trong mùa Lễ Giáng Sinh và Tết Dương Lịch khu du lịch English Village sẽ thắp trên một triệu bóng đèn từ Lễ Tạ Ơn cho đến giữa Tháng Giêng và đầu Tháng Mười Hai hàng năm có cuộc diễn hành thuyền hoa đăng trên hồ. Lịch trình những lễ hội này độc giả có thể vào xem trong trang web của thành phố www.lake-havasu.com
Laughlin, Las Vegas thu nhỏ
Những ngày Hè du khách về chơi Las Vegas, không khí nóng cháy thường là 110 độ F trở lên! Ước gì Las Vegas có một bờ biển để sau những canh bạc căng thẳng miệt mài, du khách có thể ra nằm trên bờ biển hay tung tăng bơi lội dưới làn nước xanh mát. Laughlin chính là Las Vegas lại có bờ sông cát mịn chảy qua.
Rời hồ Havasu du khách trở lại xa lộ xuyên bang 40 đi về hướng Tây, qua cầu vượt sông Colorado. Qua khỏi thị trấn Needles rẽ tay mặt vào đường 95 để vào thành phố cờ bạc Laughlin. Thị trấn Needles thuộc California nhưng Laughlin thuộc Nevada nên luật lệ cho phép mở các sòng bài casino theo kiểu Las Vegas. Trước khi tới thành phố những du khách nào đang ngủ trên xe buýt sẽ giật mình thức giấc vì con đường nhảy sóng ít ra là trên 10 cái! Nhiều người nói rằng Laughlin cố tình làm đường nhảy sóng để du khách thức dậy chuẩn bị...đánh bài?


Các khách sạn sòng bài ở Laughlin.
Laughlin nằm cạnh bờ sông Colorado hiện có hơn một chục sòng bài và khách sạn với cả ngàn phòng cùng 60 nhà hàng với các tiện nghi giải trí khác. Tất cả các sòng bài đều nằm bên bờ sông phía Nevada, muốn sang bên kia bờ là đất Arizona có 2 cây cầu, một ngay tại thành phố và một cầu khác là đi trên đập thủy điện Davis. Ðập Davis được xây năm 1953 nhằm kiểm soát điều hòa lượng nước của sông Colorado để ngăn ngừa ngập lụt cũng như sản xuất ra điện để thành phố tiêu dùng. Trên thượng nguồn đập là hồ Mohave có trữ lượng nước là 1.8 triệu acre-feet, chỗ rộng nhất đến 4 miles với những bãi cát và vách đá quanh hồ cũng là nơi người ta chơi tàu thuyền, trượt nước.
Trước năm 1965 vùng Laughlin có tên là South Point thuộc quận Clark là một miền khô cằn đá sỏi không ai thèm đến. Năm 1964 ông Don Laughlin chủ nhân sòng bài 101 ở Las Vegas đi ngang qua vùng này, thấy dòng sông nước trong cá lội nên ông mua đất nơi đây và lập sòng bài Riverside Resort chỉ có 12 máy kéo slot machine và 2 bàn đánh bài cùng với 8 phòng ngủ mà 4 phòng thì dành riêng cho gia đình ông ở. Ðể lôi kéo khách đến, ông mở nhà hàng “All You Can Eat Chicken Dinners” với giá chỉ có 98 cents. Khách đến đông và lần hồi mở thêm nhiều motel và quán bar khác. Ông bưu điện trưởng nơi đây không biết đặt tên cho trạm bưu điện tên gì nên lấy tên ông chủ sòng bài đi tiên phong tại đây là Laughlin đặt tên cho trạm bưu điện rồi từ đó trở thành địa danh luôn.
Năm 1972, Riverside Resort được 48 phòng và 1986 được xây thành một buyn đinh cao 14 tầng, đây là tòa nhà cao tầng đầu tiên được xây dựng trong vùng. Năm 1967 sòng bài thứ hai được mở là Bobcat Club nay được đổi tên thành Golden Nugget Laughlin. Năm sau đến lượt Monte Carlo khai trương Casino thứ 3 tại đây. Trong thập niên 1980 nhiều Casino được xây dựng thêm như Pioneer, River Palms và Edgewater, sang đến thập niên kế tiếp là có các sòng bài như Colorado Belle, Harrah's Del Rio, Ramada Express và mới nhất là Flamingo Hilton.
Năm 1987, chính quyền xây cầu nối liền Laughlin với bờ sông bên kia nơi có phi trường và một số nhà trọ, ông Don Laughlin đã trả số tiền 3 triệu rưỡi cho chi phí xây cầu và ông tặng cây cầu này cho 2 tiểu bang ở hai bên bờ sông. Ðến với Laughlin ngoài thú vui đen đỏ trong các sòng bài, du khách còn được ngồi cạnh dòng sông ăn uống nhất là những nhà hàng Buffet với giá thật rẻ so với Las Vegas. Ngoài ra giá phòng khách sạn tại đây cũng rẻ nên có nhiều tour du lịch bằng xe buýt lộ trình Grand Canyon-Las Vegas 3 ngày 2 đêm chọn 1 đêm ngủ ở Laughlin. Tại các cầu tàu của các khách sạn dọc theo bờ sông còn có những chiếc thuyền máy Shuttle làm con thoi đưa khách qua lại miễn phí giữa các sòng bài. Muốn hưởng thú ngồi du thuyền kiểu thuyền máy hơi nước có 2 ống khói trên sông Mississippi, khách có thể xuống tàu của hãng Americana River Ride vừa chơi bài hay nhâm nhi cà phê chỉ với giá $10 cho chuyến du hành trên sông ngang các Casino sang trọng ban đêm rực rỡ ánh hoa đăng hay qua các bãi tắm dọc bờ sông, ban ngày nơi đó có những cô gái tóc vàng đang nằm phơi mình trên bãi cát.

Trịnh Hảo Tâm

Friday, January 1, 2016

THẠCH ĐỘNG ĐÔN HOÀNG

Đôn Hoàng - vùng đất phía Tây Bắc Trung Quốc - là điểm khởi đầu trên con đường giao thương hay còn được gọi là “con đường tơ lụa” giữa Trung Quốc và các nước Tây vực. Không chỉ đẹp về mặt vị thế, Đôn Hoàng còn là nơi chứa đựng nhiều kho báu nghệ thuật của người Trung Hoa cổ, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1987.
Hang đá Mạc Cao (tiếng Trung: 莫高窟, bính âm: mò gāo kū) là một hệ thống 492 ngôi đền cách trung tâm thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam TúcTrung Quốc 25 km về phía Đông Nam. Đây cũng được gọi là Thiên Phật Động(chữ Hán: 千佛洞; bính âmqiān fó dòng)[1], hay hang Đôn Hoàng. Các hang đá này thực sự không phải là động mà là các công trình chạm khắc trong đá, thuộc dạng kiến trúc chạm khắc đá.
Hang Mạc Cao là một ngôi nhà đá có quy mô lớn nhất, nội dung phong phú nhất và có giá trị nghệ thuật cao nhất Trung Quốc còn tồn tại cho đến ngày nay. Các tác phẩm nghệ thuật chủ yếu trong ngôi nhà đá này là các tượng điêu khắc và các bức bích họa. Hiện nay nơi này còn có 492 hang động, 45.000m² bích họa và 2415 pho tượng, 5 ngôi nhà gỗ từ đời ĐườngTống. Năm 1987 hang Mạc Cao đã được UNESCO công nhận là "Di sản văn hóa thế giới".
(Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Phía Tây hành lang Hà Tây, trên núi Minh Sa thuộc Đông Nam huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc, có một vách núi cao sừng sững, bên trên gồm rất nhiều thạch động trông như tổ ong. Đây chính là khu Mạc Cao nổi tiếng Trung Quốc.
Đôn Hoàng vốn có lịch sử lâu đời. Sách Thượng thư Vũ Cống ghi: “Tam Nguy tức trạch”. Tam Nguy tức Cổ Qua Châu, nay là động Đôn Hoàng. Hiện tại, phía Nam của động Đôn Hoàng cũng gọi là núi Tam Nguy. Sách thường chép: “Vũ Cống thuộc thời đại Chiến Quốc”. Như vậy, Đôn Hoàng đã có ít nhất hơn 2.000 năm lịch sử. Vào thời Hán Võ đế, Đôn Hoàng được sáp nhập vào bản đồ nhà Hán, và tên gọi Đôn Hoàng cũng bắt đầu từ đây. Hán thư Địa lý chí chép: “Đôn Hoàng đương thời có 11.200 hộ, hơn 38.000 dân khẩu”. Hán Ứng Thiệu giải thích danh từ Đôn Hoàng rằng: Đôn là đại, Hoàng là thạnh. Có thể thấy, Đôn Hoàng thời Hán Võ đế đã rất hưng thịnh.
Đôn Hoàng nổi tiếng hoàn toàn không phải do lịch sử lâu đời của nó, mà nổi tiếng nhờ vào những thạch động. Thạch khu Mạc Cao từ Nam chí Bắc dài 1.618m, nay còn lưu lại 492 khu; trong những thạch khu này, hiện bảo tồn hơn 1.000 pho tượng và bích họa tương đối hoàn hảo. Theo thống kê, nếu liên kết những bích họa này lại, chúng có độ dài từ 50-60 dặm. Do đó, Đôn Hoàng được xem là viện bảo tàng mỹ thuật lớn và hùng vĩ nhất trên thế giới. Thạch khu còn lưu trữ nhiều sách cổ, kinh điển, tranh lụa quý giá, thật lộng lẫy, đẹp mắt.
Thạch khu Mạc Cao Đôn Hoàng xây dụng sớm nhất vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, và thời Tùy Đường chính là giai đoạn phồn vinh nhất. Việc xây dựng thạch khu đầu tiên có liên quan đến một truyền thuyết ly kỳ như sau: Vào năm thứ 2 niên hiệu Kiến Nguyên Tiên Tần (năm 366), có một vị Hòa thượng hiệu Lạc Tôn vân du đến núi Tam Nguy phía Nam thành Đôn Hoàng. Lúc này, mặt trời sắp lặn, song Hòa thượng vẫn tìm không ra chỗ nghỉ. Ngài thất vọng dõi mắt nhìn ra xa. Đột nhiên, một cảnh tượng kỳ lạ xuất hiện: trên núi Tam Nguy phát ra luồng ánh sáng trang nghiêm sáng chói, tựa như ánh hào quang của chư Phật. Hòa thượng vô cùng xúc động, vội vàng đảnh lễ, và cho rằng đây là điềm chỉ thị của Đức Phật: “Nơi đây chính là thánh địa!”. Sau đó ngài vội hóa duyên khắp nơi, quyên góp được một số tiền lớn, mời người đến khai mở thạch khu. Khi thạch khu thứ nhất ở Mạc Cao xuất hiện, tứ chúng Phật tử khắp nơi đến chiêm bái. Không lâu sau, Thiền sư Pháp Lương từ phương Đông đến khai mở thêm thạch khu thứ hai bên cạnh thạch khu của ngài Lạc Tôn (Theo “Văn bia trùng tu Phật am khu Mạc Cao” của Lý Hoài Nhượng - niên hiệu Thánh Lịch, Võ Chu, đời Đường).
Kỳ thực, ánh sáng mà Hòa thượng Lạc Tôn thấy được, chỉ là sự phát xạ ánh sáng trên nham thạch lúc mặt trời sắp lặn. Cảnh tượng này bây giờ vẫn có thể nhìn thấy được. Vào thời đó, mọi người chưa lý giải được cảnh tượng tự nhiên này, họ lại sùng tín Phật giáo, nên cho rằng đó chính là ánh hào quang của chư Phật. Từ đó về sau, thạch khu Đôn Hoàng bắt đầu nổi tiếng, các viên quan địa phương, thương nhân, thường dân, thậm chí cả những vị đại thần, công chúa nước ngoài, vì cầu phúc mà tiếp tục khai mở các thạch khu lớn nhỏ khác nhau. Đến đời Đường, khu Mạc Cao đã trở thành thánh địa Phật giáo với hơn 1.000 thạch khu, cho nên cũng gọi là “Thiên Phật động”.
Nghệ thuật Đôn Hoàng không chỉ riêng ở khu Mạc Cao, mà còn ở tại Thiên Phật động, Du Lâm khu và Tiểu Thiên Phật động. Tuy nhiên, do số lượng tác phẩm, thành tựu nghệ thuật, cũng như được bảo tồn hoàn hảo nhất, nên thạch khu Mạc Cao nghiễm nhiên được chọn làm đại diện cho nghệ thuật Đôn Hoàng. Vì vậy, trong bài văn này, chúng tôi chỉ chủ yếu giới thiệu đến nghệ thuật của thạch khu Mạc Cao.
Nghệ thuật khu Mạc Cao chủ yếu là tượng và bích họa. Nghệ thuật gia cổ đại kế thừa truyền thống tiền đại, sáng tạo rất nhiều các pho tượng màu đặc sắc. Nhưng những pho tượng nơi đây đều bằng đất, khác với các pho tượng đá ở thạch khu Long Môn, Tân Cương. Vì chất liệu đá của núi Tam Nguy khá thô cứng, không thể tạc tượng được, cho nên các nghệ nhân mới dùng đất để tạc tượng. Với những dụng cụ đơn giản, điều kiện khó khăn, bằng sức tưởng tượng phong phú và kỹ xảo điêu luyện của mình, các nghệ nhân đã sáng tác không ít những pho tượng độc đáo màu mang nhiều sắc thái khác nhau.
Những pho tượng đời Bắc Ngụy dáng dấp to cao, trán rộng, mũi cao, mày dài, tóc quăn, ngực trần, mang đậm sắc thái nghệ thuật Ấn Độ. Những pho tượng đời Đường, gương mặt đầy đặn, nhu hòa, tai to, mũi thấp, dáng dấp không cân xứng, mang phong cách dân tộc Trung Quốc.
Đời Đường, tượng khu Mạc Cao đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Tổng cộng có hơn 670 pho tượng, chiếm hơn 1/4 trong số những pho tượng điêu khắc ở đây. Những pho tượng này hoàn toàn mang sắc thái riêng - nét mặt hài hòa, thần thái trang nghiêm, phục sức trang nhã. Tượng Thiên Vương thể hiện rõ phong cách của đấng trượng phu: oai nghiêm, chánh trực, dõng mãnh, cương nghị. Tượng Bồ tát dáng vẻ thoát tục, gương mặt đầy đặn, miệng mỉm cười, sinh động như thật, thể hiện nét đẹp hiện thực trong sinh hoạt của người phụ nữ đời Tùy Đường.
Theo thống kê, khu Mạc Cao tổng cộng có 2.415 pho tượng, trong đó tượng cao nhất hơn 30m, tương đương độ cao tiền môn lầu thành Bắc Kinh; tượng nhỏ nhất chỉ hơn 10cm, điêu khắc tinh xảo. Những pho tượng này không những thể hiện được tài năng sáng tạo, trí tuệ siêu việt của nghệ nhân cổ đại Trung Quốc, mà còn hình thành nên chiều dài lịch sử phát triển nền nghệ thuật tạc tượng qua các triều đại Trung Quốc.
Bích họa khu Mạc Cao càng đặc sắc hơn. Nghệ thuật gia dùng bút màu, họa rất nhiều cảnh sinh động trên tường vách. Nội dung chủ yếu của các bích họa gồm: kinh biến, bổn sanh, tôn tượng, tượng người cúng dường và các đồ trang sức.
Kinh biến: kinh, chỉ Phật kinh; biến, là biến dịch. Có nghĩa là những bức họa biến Phật kinh thành hình tượng hóa. Kinh biến, chính là tranh Phật kinh. Những bức họa này chiếm phần quan trọng trong thạch động. Như “Tây phương tịnh độ biến”, các họa sư dùng sức tưởng tượng của mình, họa cảnh Cực lạc thế giới: Cung điện lầu đài nguy nga tráng lệ, ao nước thanh khiết, bồ đề xinh tươi, thiên không tường vân bay, trong ao thủy điểu dang rộng cánh, chính giữa là Phật Di Đà đoan tọa trên tòa sen, hai bên là hai vị Bồ tát Quan Âm và Đại Thế Chí, cùng rất nhiều Thánh chúng vây quanh.
Bổn sanh: Bổn sanh là chỉ những câu chuyện tiền thân Đức Phật Thích Ca. Tứ chúng Phật tử tin vào thuyết luân hồi, cho rằng Phật Thích Ca trước khi thành đạo đã trải qua nhiều kiếp, có kiếp là quốc vương, tăng sĩ, thương nhân... làm rất nhiều việc thiện cứu độ chúng sanh, đây là những câu chuyện chủ yếu trong kinh Bổn Sanh. Điển hình như phía Bắc thạch động số 275, có bức bích họa mô tả câu chuyện vua Thi Tì, vì cứu chim bồ câu sắp bị chim ưng ăn thịt, đã hiến thịt mình cho chim ưng. Trong bích họa, bên cạnh vua Thi Tì là một người đàn ông ngồi cắt thịt, cắt rất nhiều, nhưng vẫn không bằng trọng lượng chim bồ câu, cuối cùng đành phải lấy thân thể vua làm trái cân, và bồ câu được đặt trên bàn cân. Thạch khu số 254, họa câu chuyện bổn sanh của thái tử Tát Đóa Na. Bích họa miêu tả 3 vương tử cưỡi ngựa đi săn, giữa đường trông thấy một con cọp đói, trừng mắt nhìn 7 con cọp con vừa sinh của mình. Xem chừng, nếu không có gì lót dạ, e rằng nó sẽ ăn thịt 7 cọp con. Thái tử Tát Đóa Na cảm thương cọp con, quyết định hy sinh mạng sống của mình để cứu chúng. Thái tử để các anh đi trước, còn mình cởi áo quần, nằm trước mặt cọp mẹ. Qua hồi lâu, hai người anh không thấy em đâu, mới đi tìm, trông thấy áo quần và hài cốt của em, đau lòng bất tỉnh. Quốc vương và hoàng hậu sau khi nghe tin, đau buồn vô hạn, liền cho kiến tạo một ngôi bảo tháp ngay nơi thái tử xả thân để an táng di cốt thái tử...
Tôn tượng: là ảnh vẽ tượng Phật, Bồ tát, A la hán, tiểu thiên Phật, thuyết pháp đồ... Trong bích họa tôn tượng, gây sự chú ý nhất là tượng phi thiên. Phi thiên là hình ảnh tiên nhân trong trí tượng tượng của người cổ đại, tự do bay lượn trên không, Phật giáo gọi là “Thần Hương Âm”, có thể tấu nhạc, nhảy múa, toàn thân tỏa hương. Đạo Gia Tô phương Tây cũng có tiên, gọi là thiên sứ. Thiên sứ có đôi cánh, có thể bay. Đạo giáo cũng tin tưởng có tiên, thường vẽ những đám mây dưới chân các vị tiên, biểu đạt chư tiên cưỡi mây bay. Tuy nhiên, phi thiên trong những bích họa khu Mạc Cao kết hợp cả hai thuyết trên. Các họa sư giỏi chỉ cần vẽ trên thân chư thiên hai dây phiêu đai, một xoay một gấp, thư thái nên trông các vi tiên trở nên nhẹ nhàng, uyển chuyển như đang bay. Phương pháp này đơn giản, khéo léo, lại giàu óc tưởng tượng.
Tượng người cúng dường: chỉ người xuất tiền cúng dường kiến tạo thạch khu, họ muốn họa hình ảnh mình trên tường vách, muốn thể hiện Phật tượng trong thạch động là do chính họ cúng dường, và như vậy, Phật và Bồ tát sẽ hộ trì cho họ. Những người cúng dường này là người có thật trong xã hội, có tên có tuổi đàng hoàng. Trong số họ có công tôn quý tộc, cũng có người ở vào địa vị thấp kém nhất. Như thạch khu số 107, có tượng của các kỹ nữ v.v...
Những pho tượng và bích họa này đã mô tả lịch sử thời đại một cách sống động. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống hiện thực, tôn giáo vào thời đó. Xuyên qua tầng lớp mê tín, màn che thần Phật, chúng ta mới có thể nhận ra diện mạo thời đại một cách cụ thể, quan hệ giữa người và người, giữa giai cấp với giai cấp... Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, xã hội loạn lạc, Nam Bắc Trường Giang, Hán tộc và bộ tộc du mục kiến lập chính quyền, chinh chiến không ngừng, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đan chéo nhau, nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Những điều này cấu thành một bộ phận chủ yếu trong bích họa thạch khu. Mặc dù nghệ thuật khu Mạc Cao đa phần là câu chuyện Phật kinh, nhưng với tay nghề họa sư kỹ thuật cao, có lúc họ cũng vẽ lại những cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện thực, càng thể hiện được thành tựu lớn của nghệ thuật thạch khu Mạc Cao.
Như trong bích họa phía Nam của thạch khu số 285, chúng ta thấy 5 tên cướp bị quan quân vây bắt, và bị đưa ra phán quyết. Một kẻ thống trị mão cao đai rộng, tuyên án: móc mắt. Thế là những tên cướp này bị tước hết áo quần, bị móc đi hai mắt, vứt ngoài đồng trống, cầu sống cũng không được, muốn chết cũng không xong. Thật không gì bi thảm bằng!
Một bích họa khác miêu tả cảnh tượng cuộc sống ở gần Phổ Đà Sơn. Trong tranh có rất nhiều lữ quán: quán Long Tuyền có người đang giã gạo, quán Linh Khẩu có người đang đẩy cối xay, quán Thái Nguyên có người đang mài dao; trong chùa có người đang hội yến, các tăng sĩ đang hoạt động; trên đường người đi kẻ lại, không khí thật náo nhiệt. Đây là bức tranh sinh động của Ngũ Đài Sơn đầu đời Tống. Trong bích họa thạch khu số 45, chúng ta có thể thấy được một số thương buôn người Hồ, mũi cao, mắt sâu, râu cằm rậm đang lùa đàn lừa thồ đầy hàng, đi vào sơn cốc. Đột nhiên, đoàn thương buôn gặp cường đạo, họ chắp tay cầu xin tha mạng, hàng hóa rơi vãi đầy trên đất. Bức họa phản ánh được cảnh mậu dịch Trung ngoại...
Những bích họa sinh động này không chỉ mang nghệ thuật tôn giáo, mà còn là bức tranh lịch sử, là di sản văn hóa xán lạn, huy hoàng của dân tộc Trung Hoa, miêu tả được hiện thực xã hội, thể hiện rõ hỷ nộ ái ố của con người, đồng thời, cũng phản ánh sự tàn bạo, dối trá của giai cấp thống trị.
Thời kỳ Minh Thanh về sau, thạch khu Mạc Cao bị vùi trong sa mạc, không người chú ý đến, mãi đến năm 1900, khu Mạc Cao mới bắt đầu khôi phục lại.
Ngày 26-5-1900, đạo sĩ Vương Viên Lục cư trú tại khu Mạc Cao, lúc thanh lý cát, phát hiện bức tường hướng Bắc có vết nứt. Đâu ngờ rằng, lần phát hiện ngẫu nhiên này trở thành sự kiện trọng đại trong lịch sử văn hóa loài người thế kỷ XX.
Vương đạo sĩ thuận tay gõ vào bức tường, phát hiện bên trong vang vọng âm thanh trống rỗng. Ông Vương phá tường, thấy một cánh cửa nhỏ, bên trong cửa là một gian phòng chất đầy những vật trân quý, như: kinh quyển, văn thư, tranh lụa, hội họa, pháp khí... Nơi đây sau này gọi là Tàng kinh động. Trong những đồ vật phát hiện, có một số tư liệu văn hiến vô cùng quý giá của xã hội phong kiến 1.000 năm, là báu vật của dân tộc Trung Hoa.
Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ, thời kỳ Tây Hạ thống trị Đôn Hoàng (sau 1049), Hòa thượng ở khu Mạc Cao vì lánh nạn, nên đem lịch sử bảo tạng đặt trong gian phòng này, bên ngoài kiến lập một bức tường phong lấp. Sau khi chiến loạn kết thúc, các vị Hòa thượng không ai trở lại, gian phòng trở nên bí mật không người biết đến.
Vương đạo sĩ hoàn toàn không biết được giá trị của đồ vật, nên tự ý đem một ít trong số đồ vật này tặng cho huyện trưởng Uông Tông Hạn. Ông Hạn lại đem tặng cho Diệp Xương Xí . Ông Xí là một học gia kim thạch nổi tiếng, nên đối với những di vật này vô cùng trân quý. Nhưng triều đình nhà Thanh bấy giờ thối nát, không lưu tâm đến những văn vật như thế này. Vì thế, từng đoàn thám hiểm nước ngoài, như Anh, Nga, Hungary, Pháp... đến khu Mạc Cao tìm báu vật, một số lượng lớn bảo vật bị họ mang đi, làm hư hỏng nặng một số bích họa, mãi đến khi bảo vật khu Mạc Cao chẳng còn lại bao nhiêu thì người Trung Quốc mới bắt đầu quan tâm đến.
Thời gian giải phóng, khu Mạc Cao được Đảng và Chính phủ biết đến; năm 1950, Sở Nghiên cứu Văn vật Đôn Hoàng được thành lập, khu Mạc Cao qua đó được trùng tu. Viên minh châu trên Con đường tơ lụa này bắt đầu phát sáng!
Ngày nay, nghệ thuật Đôn Hoàng được các học giả thế giới chú ý đến, tiến hành nghiên cứu rộng rãi, hình thành một chuyên ngành nghiên cứu,Phía Tây hành lang Hà Tây, trên núi Minh Sa thuộc Đông Nam huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc, có một vách núi cao sừng sững, bên trên gồm rất nhiều thạch động trông như tổ ong. Đây chính là khu Mạc Cao nổi tiếng Trung Quốc.
Đôn Hoàng vốn có lịch sử lâu đời. Sách Thượng thư Vũ Cống ghi: “Tam Nguy tức trạch”. Tam Nguy tức Cổ Qua Châu, nay là động Đôn Hoàng. Hiện tại, phía Nam của động Đôn Hoàng cũng gọi là núi Tam Nguy. Sách thường chép: “Vũ Cống thuộc thời đại Chiến Quốc”. Như vậy, Đôn Hoàng đã có ít nhất hơn 2.000 năm lịch sử. Vào thời Hán Võ đế, Đôn Hoàng được sáp nhập vào bản đồ nhà Hán, và tên gọi Đôn Hoàng cũng bắt đầu từ đây. Hán thư Địa lý chí chép: “Đôn Hoàng đương thời có 11.200 hộ, hơn 38.000 dân khẩu”. Hán Ứng Thiệu giải thích danh từ Đôn Hoàng rằng: Đôn là đại, Hoàng là thạnh. Có thể thấy, Đôn Hoàng thời Hán Võ đế đã rất hưng thịnh.
Đôn Hoàng nổi tiếng hoàn toàn không phải do lịch sử lâu đời của nó, mà nổi tiếng nhờ vào những thạch động. Thạch khu Mạc Cao từ Nam chí Bắc dài 1.618m, nay còn lưu lại 492 khu; trong những thạch khu này, hiện bảo tồn hơn 1.000 pho tượng và bích họa tương đối hoàn hảo. Theo thống kê, nếu liên kết những bích họa này lại, chúng có độ dài từ 50-60 dặm. Do đó, Đôn Hoàng được xem là viện bảo tàng mỹ thuật lớn và hùng vĩ nhất trên thế giới. Thạch khu còn lưu trữ nhiều sách cổ, kinh điển, tranh lụa quý giá, thật lộng lẫy, đẹp mắt.
Thạch khu Mạc Cao Đôn Hoàng xây dụng sớm nhất vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, và thời Tùy Đường chính là giai đoạn phồn vinh nhất. Việc xây dựng thạch khu đầu tiên có liên quan đến một truyền thuyết ly kỳ như sau: Vào năm thứ 2 niên hiệu Kiến Nguyên Tiên Tần (năm 366), có một vị Hòa thượng hiệu Lạc Tôn vân du đến núi Tam Nguy phía Nam thành Đôn Hoàng. Lúc này, mặt trời sắp lặn, song Hòa thượng vẫn tìm không ra chỗ nghỉ. Ngài thất vọng dõi mắt nhìn ra xa. Đột nhiên, một cảnh tượng kỳ lạ xuất hiện: trên núi Tam Nguy phát ra luồng ánh sáng trang nghiêm sáng chói, tựa như ánh hào quang của chư Phật. Hòa thượng vô cùng xúc động, vội vàng đảnh lễ, và cho rằng đây là điềm chỉ thị của Đức Phật: “Nơi đây chính là thánh địa!”. Sau đó ngài vội hóa duyên khắp nơi, quyên góp được một số tiền lớn, mời người đến khai mở thạch khu. Khi thạch khu thứ nhất ở Mạc Cao xuất hiện, tứ chúng Phật tử khắp nơi đến chiêm bái. Không lâu sau, Thiền sư Pháp Lương từ phương Đông đến khai mở thêm thạch khu thứ hai bên cạnh thạch khu của ngài Lạc Tôn (Theo “Văn bia trùng tu Phật am khu Mạc Cao” của Lý Hoài Nhượng - niên hiệu Thánh Lịch, Võ Chu, đời Đường).
Kỳ thực, ánh sáng mà Hòa thượng Lạc Tôn thấy được, chỉ là sự phát xạ ánh sáng trên nham thạch lúc mặt trời sắp lặn. Cảnh tượng này bây giờ vẫn có thể nhìn thấy được. Vào thời đó, mọi người chưa lý giải được cảnh tượng tự nhiên này, họ lại sùng tín Phật giáo, nên cho rằng đó chính là ánh hào quang của chư Phật. Từ đó về sau, thạch khu Đôn Hoàng bắt đầu nổi tiếng, các viên quan địa phương, thương nhân, thường dân, thậm chí cả những vị đại thần, công chúa nước ngoài, vì cầu phúc mà tiếp tục khai mở các thạch khu lớn nhỏ khác nhau. Đến đời Đường, khu Mạc Cao đã trở thành thánh địa Phật giáo với hơn 1.000 thạch khu, cho nên cũng gọi là “Thiên Phật động”.
Nghệ thuật Đôn Hoàng không chỉ riêng ở khu Mạc Cao, mà còn ở tại Thiên Phật động, Du Lâm khu và Tiểu Thiên Phật động. Tuy nhiên, do số lượng tác phẩm, thành tựu nghệ thuật, cũng như được bảo tồn hoàn hảo nhất, nên thạch khu Mạc Cao nghiễm nhiên được chọn làm đại diện cho nghệ thuật Đôn Hoàng. Vì vậy, trong bài văn này, chúng tôi chỉ chủ yếu giới thiệu đến nghệ thuật của thạch khu Mạc Cao.
Nghệ thuật khu Mạc Cao chủ yếu là tượng và bích họa. Nghệ thuật gia cổ đại kế thừa truyền thống tiền đại, sáng tạo rất nhiều các pho tượng màu đặc sắc. Nhưng những pho tượng nơi đây đều bằng đất, khác với các pho tượng đá ở thạch khu Long Môn, Tân Cương. Vì chất liệu đá của núi Tam Nguy khá thô cứng, không thể tạc tượng được, cho nên các nghệ nhân mới dùng đất để tạc tượng. Với những dụng cụ đơn giản, điều kiện khó khăn, bằng sức tưởng tượng phong phú và kỹ xảo điêu luyện của mình, các nghệ nhân đã sáng tác không ít những pho tượng độc đáo màu mang nhiều sắc thái khác nhau.
Những pho tượng đời Bắc Ngụy dáng dấp to cao, trán rộng, mũi cao, mày dài, tóc quăn, ngực trần, mang đậm sắc thái nghệ thuật Ấn Độ. Những pho tượng đời Đường, gương mặt đầy đặn, nhu hòa, tai to, mũi thấp, dáng dấp không cân xứng, mang phong cách dân tộc Trung Quốc.
Đời Đường, tượng khu Mạc Cao đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Tổng cộng có hơn 670 pho tượng, chiếm hơn 1/4 trong số những pho tượng điêu khắc ở đây. Những pho tượng này hoàn toàn mang sắc thái riêng - nét mặt hài hòa, thần thái trang nghiêm, phục sức trang nhã. Tượng Thiên Vương thể hiện rõ phong cách của đấng trượng phu: oai nghiêm, chánh trực, dõng mãnh, cương nghị. Tượng Bồ tát dáng vẻ thoát tục, gương mặt đầy đặn, miệng mỉm cười, sinh động như thật, thể hiện nét đẹp hiện thực trong sinh hoạt của người phụ nữ đời Tùy Đường.
Theo thống kê, khu Mạc Cao tổng cộng có 2.415 pho tượng, trong đó tượng cao nhất hơn 30m, tương đương độ cao tiền môn lầu thành Bắc Kinh; tượng nhỏ nhất chỉ hơn 10cm, điêu khắc tinh xảo. Những pho tượng này không những thể hiện được tài năng sáng tạo, trí tuệ siêu việt của nghệ nhân cổ đại Trung Quốc, mà còn hình thành nên chiều dài lịch sử phát triển nền nghệ thuật tạc tượng qua các triều đại Trung Quốc.
Bích họa khu Mạc Cao càng đặc sắc hơn. Nghệ thuật gia dùng bút màu, họa rất nhiều cảnh sinh động trên tường vách. Nội dung chủ yếu của các bích họa gồm: kinh biến, bổn sanh, tôn tượng, tượng người cúng dường và các đồ trang sức.
Kinh biến: kinh, chỉ Phật kinh; biến, là biến dịch. Có nghĩa là những bức họa biến Phật kinh thành hình tượng hóa. Kinh biến, chính là tranh Phật kinh. Những bức họa này chiếm phần quan trọng trong thạch động. Như “Tây phương tịnh độ biến”, các họa sư dùng sức tưởng tượng của mình, họa cảnh Cực lạc thế giới: Cung điện lầu đài nguy nga tráng lệ, ao nước thanh khiết, bồ đề xinh tươi, thiên không tường vân bay, trong ao thủy điểu dang rộng cánh, chính giữa là Phật Di Đà đoan tọa trên tòa sen, hai bên là hai vị Bồ tát Quan Âm và Đại Thế Chí, cùng rất nhiều Thánh chúng vây quanh.
Bổn sanh: Bổn sanh là chỉ những câu chuyện tiền thân Đức Phật Thích Ca. Tứ chúng Phật tử tin vào thuyết luân hồi, cho rằng Phật Thích Ca trước khi thành đạo đã trải qua nhiều kiếp, có kiếp là quốc vương, tăng sĩ, thương nhân... làm rất nhiều việc thiện cứu độ chúng sanh, đây là những câu chuyện chủ yếu trong kinh Bổn Sanh. Điển hình như phía Bắc thạch động số 275, có bức bích họa mô tả câu chuyện vua Thi Tì, vì cứu chim bồ câu sắp bị chim ưng ăn thịt, đã hiến thịt mình cho chim ưng. Trong bích họa, bên cạnh vua Thi Tì là một người đàn ông ngồi cắt thịt, cắt rất nhiều, nhưng vẫn không bằng trọng lượng chim bồ câu, cuối cùng đành phải lấy thân thể vua làm trái cân, và bồ câu được đặt trên bàn cân. Thạch khu số 254, họa câu chuyện bổn sanh của thái tử Tát Đóa Na. Bích họa miêu tả 3 vương tử cưỡi ngựa đi săn, giữa đường trông thấy một con cọp đói, trừng mắt nhìn 7 con cọp con vừa sinh của mình. Xem chừng, nếu không có gì lót dạ, e rằng nó sẽ ăn thịt 7 cọp con. Thái tử Tát Đóa Na cảm thương cọp con, quyết định hy sinh mạng sống của mình để cứu chúng. Thái tử để các anh đi trước, còn mình cởi áo quần, nằm trước mặt cọp mẹ. Qua hồi lâu, hai người anh không thấy em đâu, mới đi tìm, trông thấy áo quần và hài cốt của em, đau lòng bất tỉnh. Quốc vương và hoàng hậu sau khi nghe tin, đau buồn vô hạn, liền cho kiến tạo một ngôi bảo tháp ngay nơi thái tử xả thân để an táng di cốt thái tử...
Tôn tượng: là ảnh vẽ tượng Phật, Bồ tát, A la hán, tiểu thiên Phật, thuyết pháp đồ... Trong bích họa tôn tượng, gây sự chú ý nhất là tượng phi thiên. Phi thiên là hình ảnh tiên nhân trong trí tượng tượng của người cổ đại, tự do bay lượn trên không, Phật giáo gọi là “Thần Hương Âm”, có thể tấu nhạc, nhảy múa, toàn thân tỏa hương. Đạo Gia Tô phương Tây cũng có tiên, gọi là thiên sứ. Thiên sứ có đôi cánh, có thể bay. Đạo giáo cũng tin tưởng có tiên, thường vẽ những đám mây dưới chân các vị tiên, biểu đạt chư tiên cưỡi mây bay. Tuy nhiên, phi thiên trong những bích họa khu Mạc Cao kết hợp cả hai thuyết trên. Các họa sư giỏi chỉ cần vẽ trên thân chư thiên hai dây phiêu đai, một xoay một gấp, thư thái nên trông các vi tiên trở nên nhẹ nhàng, uyển chuyển như đang bay. Phương pháp này đơn giản, khéo léo, lại giàu óc tưởng tượng.
Tượng người cúng dường: chỉ người xuất tiền cúng dường kiến tạo thạch khu, họ muốn họa hình ảnh mình trên tường vách, muốn thể hiện Phật tượng trong thạch động là do chính họ cúng dường, và như vậy, Phật và Bồ tát sẽ hộ trì cho họ. Những người cúng dường này là người có thật trong xã hội, có tên có tuổi đàng hoàng. Trong số họ có công tôn quý tộc, cũng có người ở vào địa vị thấp kém nhất. Như thạch khu số 107, có tượng của các kỹ nữ v.v...
Những pho tượng và bích họa này đã mô tả lịch sử thời đại một cách sống động. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống hiện thực, tôn giáo vào thời đó. Xuyên qua tầng lớp mê tín, màn che thần Phật, chúng ta mới có thể nhận ra diện mạo thời đại một cách cụ thể, quan hệ giữa người và người, giữa giai cấp với giai cấp... Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, xã hội loạn lạc, Nam Bắc Trường Giang, Hán tộc và bộ tộc du mục kiến lập chính quyền, chinh chiến không ngừng, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đan chéo nhau, nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Những điều này cấu thành một bộ phận chủ yếu trong bích họa thạch khu. Mặc dù nghệ thuật khu Mạc Cao đa phần là câu chuyện Phật kinh, nhưng với tay nghề họa sư kỹ thuật cao, có lúc họ cũng vẽ lại những cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện thực, càng thể hiện được thành tựu lớn của nghệ thuật thạch khu Mạc Cao.
Như trong bích họa phía Nam của thạch khu số 285, chúng ta thấy 5 tên cướp bị quan quân vây bắt, và bị đưa ra phán quyết. Một kẻ thống trị mão cao đai rộng, tuyên án: móc mắt. Thế là những tên cướp này bị tước hết áo quần, bị móc đi hai mắt, vứt ngoài đồng trống, cầu sống cũng không được, muốn chết cũng không xong. Thật không gì bi thảm bằng!
Một bích họa khác miêu tả cảnh tượng cuộc sống ở gần Phổ Đà Sơn. Trong tranh có rất nhiều lữ quán: quán Long Tuyền có người đang giã gạo, quán Linh Khẩu có người đang đẩy cối xay, quán Thái Nguyên có người đang mài dao; trong chùa có người đang hội yến, các tăng sĩ đang hoạt động; trên đường người đi kẻ lại, không khí thật náo nhiệt. Đây là bức tranh sinh động của Ngũ Đài Sơn đầu đời Tống. Trong bích họa thạch khu số 45, chúng ta có thể thấy được một số thương buôn người Hồ, mũi cao, mắt sâu, râu cằm rậm đang lùa đàn lừa thồ đầy hàng, đi vào sơn cốc. Đột nhiên, đoàn thương buôn gặp cường đạo, họ chắp tay cầu xin tha mạng, hàng hóa rơi vãi đầy trên đất. Bức họa phản ánh được cảnh mậu dịch Trung ngoại...
Những bích họa sinh động này không chỉ mang nghệ thuật tôn giáo, mà còn là bức tranh lịch sử, là di sản văn hóa xán lạn, huy hoàng của dân tộc Trung Hoa, miêu tả được hiện thực xã hội, thể hiện rõ hỷ nộ ái ố của con người, đồng thời, cũng phản ánh sự tàn bạo, dối trá của giai cấp thống trị.
Thời kỳ Minh Thanh về sau, thạch khu Mạc Cao bị vùi trong sa mạc, không người chú ý đến, mãi đến năm 1900, khu Mạc Cao mới bắt đầu khôi phục lại.
Ngày 26-5-1900, đạo sĩ Vương Viên Lục cư trú tại khu Mạc Cao, lúc thanh lý cát, phát hiện bức tường hướng Bắc có vết nứt. Đâu ngờ rằng, lần phát hiện ngẫu nhiên này trở thành sự kiện trọng đại trong lịch sử văn hóa loài người thế kỷ XX.
Vương đạo sĩ thuận tay gõ vào bức tường, phát hiện bên trong vang vọng âm thanh trống rỗng. Ông Vương phá tường, thấy một cánh cửa nhỏ, bên trong cửa là một gian phòng chất đầy những vật trân quý, như: kinh quyển, văn thư, tranh lụa, hội họa, pháp khí... Nơi đây sau này gọi là Tàng kinh động. Trong những đồ vật phát hiện, có một số tư liệu văn hiến vô cùng quý giá của xã hội phong kiến 1.000 năm, là báu vật của dân tộc Trung Hoa.
Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ, thời kỳ Tây Hạ thống trị Đôn Hoàng (sau 1049), Hòa thượng ở khu Mạc Cao vì lánh nạn, nên đem lịch sử bảo tạng đặt trong gian phòng này, bên ngoài kiến lập một bức tường phong lấp. Sau khi chiến loạn kết thúc, các vị Hòa thượng không ai trở lại, gian phòng trở nên bí mật không người biết đến.
Vương đạo sĩ hoàn toàn không biết được giá trị của đồ vật, nên tự ý đem một ít trong số đồ vật này tặng cho huyện trưởng Uông Tông Hạn. Ông Hạn lại đem tặng cho Diệp Xương Xí . Ông Xí là một học gia kim thạch nổi tiếng, nên đối với những di vật này vô cùng trân quý. Nhưng triều đình nhà Thanh bấy giờ thối nát, không lưu tâm đến những văn vật như thế này. Vì thế, từng đoàn thám hiểm nước ngoài, như Anh, Nga, Hungary, Pháp... đến khu Mạc Cao tìm báu vật, một số lượng lớn bảo vật bị họ mang đi, làm hư hỏng nặng một số bích họa, mãi đến khi bảo vật khu Mạc Cao chẳng còn lại bao nhiêu thì người Trung Quốc mới bắt đầu quan tâm đến.
Thời gian giải phóng, khu Mạc Cao được Đảng và Chính phủ biết đến; năm 1950, Sở Nghiên cứu Văn vật Đôn Hoàng được thành lập, khu Mạc Cao qua đó được trùng tu. Viên minh châu trên Con đường tơ lụa này bắt đầu phát sáng!
Ngày nay, nghệ thuật Đôn Hoàng được các học giả thế giới chú ý đến, tiến hành nghiên cứu rộng rãi, hình thành một chuyên ngành nghiên cứu, gọi là Đôn Hoàng học, đã nhiều lần tổ chức hội thảo Đôn Hoàng học có quy mô thế giới. Nền nghệ thuật lâu đời Đôn Hoàng đã được các nước biết đến, những tác phẩm nghệ thuật này trở thành báu vật quý hiếm trên toàn thế giới.
 gọi là Đôn Hoàng học, đã nhiều lần tổ chức hội thảo Đôn Hoàng học có quy mô thế giới. Nền nghệ thuật lâu đời Đôn Hoàng đã được các nước biết đến, những tác phẩm nghệ thuật này trở thành báu vật quý hiếm trên toàn thế giới.


Tâm Hiếu
 














Phong cách nghệ thuật của những bức bích họa trong động Đôn Hoàng chịu ảnh hưởng của 2 phong cách bích họa Trung Nguyên. Các bức theo phong cách Tào gia có hình Phật mặc áo cà sa nhiều nếp gấp, vải mềm như bị ướt nước. Phong cách thứ 2 là phong cách bích họa đời Đường, chú trọng vào quần áo, cân đai của nhân vật.

Hang động ở Đôn Hoàng được vinh danh là thiên hạ đệ nhất động bởi sở hữu một quần thể lên tới 492 hang động và hơn 2.400 bức tượng Phật, cùng vô vàn bức bích họa, trải dài trên diện tích 45.000 m2.