Saturday, April 9, 2016

Thủ đô Brussels của Bỉ

Nước Bỉ (Belgium) là quốc gia nhỏ bé diện tích 30,158 km vuông nằm về phía Bắc nước Pháp. Dân số 10.5 triệu người nói 3 ngôn ngữ: vùng Flanders miền Bắc nói tiếng Hòa Lan, miền Nam vùng Wallonia nói tiếng Pháp và một nhóm nhỏ độ 70 ngàn người ở phía Ðông gần nước Ðức nói tiếng Ðức.

Ngày 22 tháng 3, 2016 khủng bố đã tấn công vào phi trường và nhà ga xe điện ngầm ở thủ đô Brussels của nước Bỉ khiến 34 người chết và hơn 200 người bị thương. Thành phố Brussels vốn rất thanh bình, dân chúng hiền hòa được tổ chức Liên Minh Âu Châu (European Union) đặt nhiều trụ sở nên cho dù EU không chính thức công bố nhưng người ta xem Brussels như là thủ đô của Liên Minh Âu Châu đại diện cho 28 quốc gia. Cuộc tấn công tại thành phố này khiến cho cả thế giới bàng hoàng và đồng thanh lên án tổ chức Hồi giáo cực đoan ISIS đã xác nhận chính là thủ phạm.

Tháp Atomium tọa lạc trong công viên Heysel Park.
Trên đường di chuyển ở Âu Châu tôi đã qua lại nước Bỉ nhiều lần nhưng dừng chân ở thủ đô Brussels chỉ một lần duy nhất mặc dù nơi đây có rất nhiều di tích đáng xem và tôi cũng có cô em bà con du học trước 1975 sống tại đây. Sau đây là ký sự ghi lại chuyến thăm viếng và khám phá về thành phố Brussels đã lưu lại cho tôi nhiều kỷ niệm thích thú khó quên.
Từ nước Anh chúng tôi qua eo biển Dover bằng phà lớn để sang nước Pháp vào buổi sáng mùa Xuân. Xe buýt của đoàn du lịch men theo bờ Bắc Hải đi về hướng Ðông lối nửa giờ sau đã đi vào lãnh địa nước Bỉ. Nước Bỉ có 67 km bờ biển, vùng phía Bắc giáp biển không có thành phố nào lớn chỉ là những làng đánh cá êm đềm, họ chuyên bắt con chem chép (mussels) là một loại sò vỏ màu đen làm món ăn truyền thống. Vùng đất giáp biển là bình nguyên bằng phẳng, mưa nhiều nên hoa lá xanh tươi, nhà cửa nho nhỏ nhưng tươm tất gọn gàng và đời sống dân chúng ở đây rất bình dị nhàn nhã, rảnh rỗi người ta ngồi quán cà phê ban ngày hay quán bia vào ban đêm.
Khi xe gần đến thành phố Brugge thì giã từ vùng biển xuôi Nam để vào Brussels là thủ đô đồng thời cũng là thành phố lớn nhất nước Bỉ. Dân số năm 2007 là 1 triệu 31 ngàn người, 90% nói tiếng Pháp, phần còn lại nói tiếng Hòa Lan. Về lịch sử Brussels được thành lập vào thế kỷ thứ 10 bởi cháu nội vua Charles I (774-814) hay còn được gọi là Charlemagne ông này là hoàng đế của nước Franks gồm các nước Pháp, Ðức và một số nước Trung Âu ngày nay. Thời Trung Cổ vùng nước Bỉ cũng như Brussels nằm dưới sự cai trị của những vương quốc hùng mạnh như Pháp, Ðức, Áo Hung cho đến năm 1830 mới độc lập thành một nước riêng biệt nhưng không có ngôn ngữ riêng. Sau Ðệ Nhị Thế Chiến Brussels là trung tâm chính trị của Âu Châu, nhiều tổ chức quốc tế đặt bản doanh như NATO và hiện nay giữ vai trò thủ đô Âu Châu nơi nhiều cơ quan của Liên Hiệp Âu Châu (EU) tọa lạc như tòa nhà của Hội Ðồng Liên Hiệp Âu Châu (European Union Council) và văn phòng của ông chủ tịch EU cũng hiện diện tại đây. Về chính trị Bỉ quốc theo chế độ quân chủ lập hiến, có vua và Quốc Hội có hai viện: Hạ Viện (Chamber of Representatives) các dân biểu có nhiệm kỳ 4 năm và Thượng Viện (Senate) các thượng nghị sĩ cũng do dân bầu lên. Quốc vương Bỉ hiện nay là Albert II lên ngôi từ năm 1993.

Nhà thờ Ðức Bà xây năm 1872.
Ðài kỷ niệm Atomium
Trước khi vào trung tâm thành phố chúng tôi được đưa đi xem kiến trúc Atomium tọa lạc trong công viên Heysel Park ở phía Bắc thành phố (cách trung tâm 7 km) cạnh xa lộ vòng đai. Atomium là một “đài kỷ niệm” (monument) được xây trong dịp Hội Chợ Thế Giới Brussels 1958 được thiết kế bởi André Waterkeyn, cao 102 mét (335 ft) với 9 trái cầu bằng thép nối kết với nhau tạo thành hình dạng một phân tử của chất sắt (có 9 nguyên tử) được nhân lên 165 tỷ lần.
Hôm nay ngày Chủ Nhật đầu mùa Xuân thời tiết lại ấm áp lạ thường nên dân chúng đổ xô đến công viên Heysel rất đông. Công viên rộng lớn cây cối xanh tươi và hồ nước tĩnh lặng, ngày xưa là khu rừng với lâu đài nhà vua được xây bên trong. Vào chơi công viên không phải trả tiền. Bãi đậu xe không còn chỗ trống nên thiên hạ đậu xe dọc theo lề đường, mỗi khi có một khoảng trống vừa đủ là có người chen vào, mỗi xe khít nhau những người lái xe bên Mỹ khó đậu được như vậy. Xe buýt du lịch có chỗ đậu riêng gần đài Atomium và chúng tôi chỉ có 15 phút xuống ngắm nghía bên ngoài chụp vài tấm ảnh kỷ niệm. Chín trái cầu lớn có đường kính 18 mét được nối nhau bằng những ống tròn và du khách có thể đi trong đó. Lên trên trái cầu cao nhất có cửa kính để nhìn xuống thành phố Brussels. Trục giữa thẳng đứng nối 2 trái cầu gần mặt đất nhất là ống của thang máy lên xuống. Khi xây Atomium cho hội chợ thế giới người ta dự trù đài chỉ lưu lại 6 tháng nhưng đến nay vừa đúng 50 năm Atomium vẫn còn và lâu dần thành biểu tượng cho thành phố Brussels khiến người ta không phá bỏ đi được. Khi quyết định lưu giữ vĩnh viễn, vào năm 2004 Atomium đóng cửa 2 năm để tu bổ trong đó có việc thay thế lớp vỏ bọc bên ngoài của mỗi trái cầu, trước kia là lớp nhôm đã phai màu thay bằng thép không rỉ (stainless steel) sáng loáng rất đẹp. Ðể có tiền tu bổ, ban quản lý đài cho bán những miếng nhôm cũ cho du khách làm vật kỷ niệm. Công tác tu bổ còn bao gồm việc nới rộng phòng trưng bày, nhà hàng và gian nhà nghỉ trưa cho các cháu học sinh vào du khảo (field trip). Khi đi ngang qua phòng trưng bày thấy hình gian hàng các quốc gia tham dự Hội Chợ Thế Giới Brussels 1958 trong đó có hình gian hàng Việt Nam Cộng Hòa với các sản phẩm thủ công và lá cờ vàng 3 sọc đỏ. Tôi còn nhớ cha tôi hồi năm đó có đến xem hội chợ này trong phái đoàn Công Giáo hành hương Lộ Ðức, ông có mua dĩa sứ kỷ niệm in hình đài Atomium. Hồi đó tôi nghĩ mình khó có cơ hội một ngày nào đến thăm nơi đây. Hôm nay đúng nửa thế kỷ sau tôi lại đến đây và dĩ nhiên cha tôi không còn nữa đã qua đời ở Việt Nam năm 1992.

Ðường phố Brussels, thủ đô vương quốc Bỉ.
Những tòa nhà dùng trong Hội Chợ Quốc Tế 1958 và trước đó là Hội Chợ 1930 ở phía Bắc đài Atomium vẫn còn để đó. Cạnh đài Atomium về phía Tây có công viên Mini Europe nơi đây xây lại những mô hình nhỏ theo tỷ lệ 1/25 gồm 300 tòa kiến trúc của 80 thành phố Âu Châu nhưng không có trong chương trình du lịch của chúng tôi. Cạnh Mini Europe là sân vận động và cầu trường King Baudouin Stadium xây xong năm 1930 nhân kỷ niệm 100 năm thành lập nước Bỉ. Cầu trường này rất lớn là nơi diễn ra những cuộc tranh tài thế giới gần đây nhất là giải bóng tròn Euro 2000.


Chúng tôi lên xe đi về hướng Nam đến một khu rừng cạnh Atomium có tên là Park Van Laeken được rào lại bằng hàng rào sắt, bên trong cây cối dầy đặc thấp thoáng phía xa một lâu đài. Ông trưởng đoàn cho biết đó là lâu đài hoàng gia Laeken (Royal Castle of Laeken) là nơi vua và hoàng gia trú ngụ. Nhà vua tiền nhiệm cũng rất thích những kiến trúc Ðông phương nên ông cho xây bên trong khu rừng thượng uyển một ngôi chùa Tàu và một tháp chuông Nhật Bản nhiều tầng bên cạnh là khu vườn cảnh Nhật đầy đủ cầu gỗ bắc ngang ao cá Koi và những cây thông Nhật. Xe chạy bên ngoài cũng có thể thấy ngôi chùa và tháp chuông bên trong vườn thượng uyển.

Hoàng cung và công viên Brussels
Từ công viên tháp Atomium tiếp tục theo hướng Nam để về trung tâm thành phố Brussels. Không biết ngày thường như thế nào nhưng hôm nay là ngày Chủ nhật đường sá xe cộ vắng vẻ chỉ lưa thưa người đi bộ. Ðường sá không rộng lắm, dốc cao thoai thoải, hai bên đường dinh thự, nhà phố sơn màu trắng êm đềm thanh thản. Giữa thành phố có một dòng sông nhỏ chảy qua theo hướng Ðông Bắc-Tây Nam, có một khúc sông trở thành sông ngầm và người ta xây đường sá bên trên ở khu trung tâm thành phố. Thành phố có nhiều nhà thờ cổ như nhà thờ Ðức Bà (Notre Dame Church of Laeken xây năm 1872) mà chúng tôi có dừng lại bên ngoài chụp ảnh. Cuối cùng chúng tôi ghé lại ở quảng trường dài và rộng như một đại lộ ở trước Hoàng Cung Brussels (Royal Palace of Brussels). Hoàng cung là một tòa nhà có kiến trúc Neoclassical giống như những lâu đài ở Paris, tường đá, mái lợp kim loại đồng qua thời gian trổ ten màu xanh. Mặt tiền chính diện như ta thấy hiện nay được xây vào khoảng 1900 dưới triều vua Leopold II trong khi phần lớn tòa nhà có niên đại vào cuối thế kỷ 18, tuy nhiên khu đất vườn cảnh một phần còn lại từ hoàng cung thời Trung Cổ. Tòa nhà thuộc tài sản quốc gia, người cư trú là vua Bỉ và hoàng gia nhưng đây chỉ là văn phòng nơi vua làm việc, hội họp, nghi lễ còn nơi cư ngụ thật sự vẫn là lâu đài Laeken bên cạnh đài Atomium chúng tôi vừa viếng qua.

Hoàng cung Brussels của vương quốc Bỉ.
Ðối diện hoàng cung phía Bắc quảng trường là công viên Brussels là công viên lớn nhất ở ngay trung tâm thành phố. Xung quanh ngoài hoàng cung còn có tòa nhà lập pháp Belgian Parliament và tòa Ðại Sứ Mỹ. Trong công viên cây cối xanh tươi trang trí nhiều bồn phun nước, tượng đá, cổng chào rất trang nghiêm. Trong mùa Hè mỗi cuối tuần đều có tổ chức những buổi hòa nhạc, văn nghệ miễn phí cho công chúng xem. Gần đó có nhà hát hoàng gia Théâtre Royal du Parc và nhà ga xe điện ngầm Park Metro Station cũng đầy dấu tích xưa cũ. Ngày xưa nơi công viên Brussels là lâu đài Koudenberg của những lãnh chúa thời Trung Cổ được trang hoàng nguy nga nhưng lâu đài đã bị thiêu rụi trong trận hỏa hoạn năm 1731 khi Brussels được cai trị bởi đế quốc Áo Hung đang thống lĩnh phía Nam Hòa Lan. Năm 1775, lâu đài được xây lại là tòa nhà dùng làm hoàng cung hiện nay, phần đất rộng còn lại nữ hoàng Áo Hung là Maria-Theresia rất thích vườn cảnh hoa lá cho biến thành công viên hoàng gia. Năm 1780, khán đài Waux-Hall được xây dựng cho những buổi hòa nhạc và khán giả có thể ngồi ngoài trời vừa thưởng thức âm nhạc vừa ăn uống thoải mái. Năm 1803, buổi dạ tiệc được tổ chức tại đây với 1,800 quan khách nhằm chào đón vinh danh Hoàng Ðế Napoléon và Hoàng Hậu Josephine. Tháng Chín 1830, công viên trở thành chiếc nôi cho nền độc lập của Bỉ quốc, sau khi chiếm rạp hát Opera, lực lượng cách mạng đã đánh nhau với quân Hòa Lan trong công viên và vua Hòa Lan là William I phải rời Brussels ngày 27 Tháng Chín mở đầu cho một quốc gia mới được khai sinh là Bỉ quốc.
Rời công viên thành phố chúng tôi được đưa về khách sạn NH Grand Palace Arenberg cách chừng 2 km ở phía trước nhà thờ hai thánh nam nữ St. Michael và Gudula. Nhà thờ màu đen cổ kính và to lớn nên được phong là vương cung thánh đường (cathedral). Thánh đường được xây từ năm 1226 và kéo dài đến 300 năm mới xong. Hôm nay là ngày Chủ Nhật lễ buổi chiều đang cử hành bên trong nhà thờ, giống như ở Việt Nam bổn đạo đứng tràn ra bên ngoài. Mặc dù là con chiên nhưng đang bận... du lịch không đi lễ được, Chúa vốn nhân từ, lòng lành vô cùng nên chắc là tha thứ, thông cảm nổi lòng của con chiên...ghẻ!
King's Gallery
Từ khách sạn muốn ra khu phố cổ trung tâm thành phố chúng tôi đi bộ về hướng Nam xuyên qua một thương xá cổ gọi là King's Gallery. Thương xá có mái che kín chỉ có một con đường ở giữa dài 200 mét, hai bên là những cửa hiệu thanh lịch bày bán những món đắt tiền như kim cương, nữ trang, đồng hồ, tranh tượng nghệ thuật. Phía trên trần cao lợp bằng kính trong màu xanh để lấy ánh sáng mặt trời nên du khách tản bộ phía dưới có ánh nắng rất dịu mát và ấm áp. Nguyên thủy thương xá được xây vào năm 1836 bởi kiến trúc sư trẻ tên Jean Pierre Cluysenaer người Hòa Lan nhằm thu hút khách thượng lưu đến mua sắm. Vị trí thương xá trước đây là những con hẻm tạp nhạp nằm giữa hai chợ dược thảo và chợ rau cải, dân giàu có ít khi dám vào. Ðể xây thương xá người ta phá bỏ những hàng quán lôi thôi nhếch nhác này trong đó có ngôi nhà “Maison des Orfèvres” (nhà thợ bạc) ở đầu đường Rue du Marché aux Herbes hiện nay, bà cụ sống từ lâu trong căn nhà đã chết vì xúc động khi nghe tin ngôi nhà sẽ bị phá bỏ. Một ông thợ hớt tóc có biệt danh “Mister Paneel” không chịu dời đi và dọa sẽ dùng dao cạo râu cắt cổ còn hơn là nhìn thấy tiệm tóc của mình bị san bằng!

Bên trong thương xá cổ King's Gallery.
Công tác xây cất được vua Leopold I đặt viên đá đầu tiên và để tỏ lòng tôn kính người ta đặt tên thương xá là King's Gallery. Khi hoàn thành thương xá rất lộng lẫy và thành công, nổi tiếng thời ấy là khu vui chơi mua sắm thanh lịch. Văn nhân thi sĩ nổi tiếng đương thời thường tụ tập nơi đây như Baudelaire, Alexandre Dumas, Victor Hugo, Apollinaire hàng ngày ngồi ở quán “Café de la Renaissance” (nay là quán “Taverne du Passage”). Một cửa hàng nổi tiếng khác ở số 23 của người Thụy Sĩ tên Jean Neuhaus chuyên làm kẹo ho, xi rô và marshmallows (bánh cái kén màu trắng) trị bệnh bao tử. Khoảng năm 1912, cửa tiệm ông ta nổi tiếng với chocolates pha trộn đậu phộng, trái cây và rượu rum. Ngày nay khi qua thương xá này vẫn còn thấy những quán cà phê, các cửa hiệu bán chocolates là một trong những món đặc sản của Brussels cùng với món bánh kẹp tàn ong waffle. Thương xá nguyên thủy đến năm 1950 bị phá bỏ vì quá cũ không hội đủ tiêu chuẩn an toàn theo luật lệ hiện hành và đã xây lại thương xá mới theo đúng theo kiểu cũ 1836.
Giữa thương xá và quảng trường Grand Place xưa kia là khu chợ rau nhưng ngày nay không thấy rau cải mà toàn là du khách đủ mọi quốc tịch với những hàng quán cà phê, bánh ngọt nhất là món bánh kẹp waffer ăn với xi rô hay kem béo ngọt (whipped cream). Người dân Âu Châu rất thích ăn ngọt, nơi nào cũng có tiệm kem và tiệm bánh nhưng số người mập quá khổ lại không nhiều bằng người Mỹ, có lẽ nhờ đi bộ nhiều, đi đâu cũng lái xe hơi như người Mỹ.
Quảng trường Grand Place
Rẽ sang phải đi về hướng Nam là đến quảng trường Grand Place, đặt chân đến đây là trời đã tối và những dãy nhà lầu cổ xưa vây xung quanh quảng trường đã lung linh ánh đèn huyền ảo. Họ thiết kế ánh đèn vàng không quá sáng trên những trụ đèn theo kiểu cổ những thế kỷ trước lúc đèn đường còn thắp bằng dầu. Chỉ trên nóc những tòa nhà mới có những ngọn đèn pha chiếu sáng những hình tượng, phù điêu bằng đá. Xung quanh quảng trường nổi bật hơn hết là Tòa Thị Chính cao vút ngọn tháp kiểu Gothic trên chóp (318 ft. hay 97 m) là tượng Thánh St. Michael là thánh bổn mạng của thành phố Brussels. Các tòa nhà kế bên là Bread House xưa kia là tiệm bánh mì, tòa nhà vua Charles V cũng cổ xưa chi chít những hoa văn, hình tượng trang trí. Có một tòa nhà đang tu sửa lại mặt tiền với những giàn giáo, lưới che bụi nhưng phía trước cũng được phủ bằng tấm hình chính diện ngôi nhà lớn bằng kích thước thật, ở xa du khách tưởng là kiến trúc thật chứ không phải chỉ là tấm hình lớn (sau đó trong chuyến đi sang các thành phố khác như Venice, Rome cũng gặp cảnh như vậy, chứ trước kia khi tu sửa bày ra toàn là những giàn giáo trông rất loang lổ xấu xí).

Quảng trường thành phố Brussels Grand Palace.


Quảng trường thật rộng lớn lát bằng đá là nơi dân chúng hội họp mỗi khi có việc cần. Ban đêm gió thoang thoảng rất mát, du khách lưa thưa, có bà bán hoa tươi đang dọn dẹp, một anh chàng ngồi đàn ghi ta vài cô gái ngồi nghe khúc khích cười. Trước hành lang lờ mờ vài cặp tình nhân âu yếm bên nhau thật tình tứ lãng mạn.

Trịnh Hảo Tâm

Tuesday, March 22, 2016

Viếng đảo Catalina

Ngoài khơi Quận Cam California có nhiều đảo gọi là Channel Islands nhưng chỉ một đảo có người ở và trở thành nơi du lịch nghỉ mát đó là đảo Santa Catalina thường được gọi tắt là đảo Catalina. Ðảo Catalina có chiều dài 22 miles (35 km) và chiều ngang nơi rộng nhất là 8 miles (13 km) và cách bờ biển Long Beach khoảng 22 miles về hướng Nam. Tuy đứng ở bờ biển Quận Cam thấy dãy núi trên đảo rất rõ vào những ngày trời quang đãng nhưng đảo thuộc Quận Los Angeles và được điều hành bởi Catalina Island Conservancy là một tổ chức bất vụ lợi nhằm bảo tồn môi trường, phong cảnh thiên nhiên trên đảo.

Ðảo Catalina cách bờ biển Quận Cam California 22 miles (35 km), muốn ra chơi đảo du khách phải đi tàu đò (ferry) mất một tiếng đồng hồ, giá vé $72 khứ hồi. Hãng tàu Catalina Express đang có chương trình miễn phí vé khứ hồi nếu đi trong ngày sinh nhật của mình. Muốn có vé tàu miễn phí vào trang mạng www.catalinaexpress.com để ghi danh và giữ chỗ trên tàu.
Du khách ở xa đến California bằng phi trường Los Angeles (LAX), bến tàu ra đảo Catalina gần nhất là ở Marina Del Rey chỉ cách phi trường 4 miles. Du khách đến Calfornia cư ngụ ở Little Saigon thuộc Quận Cam, hãng Catalina Express có bến tàu ở Long Beach, San Pedro và Dana Point. Còn ở Newport Beach có hãng tàu Catalina Passenger Service cũng có tàu ra đảo và du khách cũng có thể dùng trực thăng viếng đảo khởi hành từ San Pedro và Long Beach.

Thành phố Avalon, thủ phủ đảo Catalina
Khởi hành từ bến tàu riêng của hãng ở Long Beach vào buổi sáng, một giờ sau tàu giảm vận tốc để cập vào cầu tàu thành phố Avalon là thị trấn lớn nhất trên đảo. Thị trấn kia là Two Harbors một làng nhỏ dân số chỉ có 298 người ở phía Bắc nơi eo thắt là chỗ hẹp nhất trên đảo nên có hai bờ biển gần gặp nhau. Thành phố Avalon theo thống kê năm 2010 có dân số là 3,728 người ở phía Nam gần cuối đảo, tọa lạc trong một thung lũng cây cối xanh tươi có bãi biển hình bán nguyệt là nơi nhiều du thuyền ca nô neo đậu. Phía Bắc bãi là tòa nhà hình tròn mái ngói đỏ theo kiến trúc kiểu Ý gọi là Casino, nhưng không có nghĩa thông thường là sòng bài mà theo người Ý “Casino” là nơi hội tụ, gặp gỡ. Phía Nam bãi biển là cầu tàu của hãng Catalina Express. Nhà cửa trong thành phố nho nhỏ sơn trắng với mái ngói đỏ theo kiểu Ðịa Trung Hải và xây cheo leo trên những dãy đồi núi bao quanh thành phố.
Vừa lên bờ ngay tại bến tàu thấy quảng cáo những tour du ngoạn ngắm cảnh đảo Catalina, chúng tôi chọn mua tour xe buýt dạo quanh thành phố “Avalon Scenic Tour” trong 1 giờ 20 phút với giá $20 mỗi người. Trong lúc chờ giờ khởi hành chúng tôi đi vào trung tâm thành phố kiếm gì ăn trưa nhưng thấy các nhà hàng quá đông người, sợ không đủ giờ nên chúng tôi vào chợ Vons mua sandwich ăn đỡ và lon Coca Cola giá $2. So với trong đất liền cái gì nơi đây cũng mắc hơn và thuế mua bán là 9.25% giống như Los Angeles. Ðường sá trong thành phố nhỏ hẹp và ít xe hơi lưu thông vì chính quyền sợ ô nhiễm nên hạn chế người dân sử dụng xe hơi. Muốn đem một chiếc xe từ trong đất liền ra phải chờ đợi nhiều khi đến 10 năm! Dân chúng địa phương chỉ dùng xe điện loại dùng trong sân golf và đi xe đạp hay xe gắn máy loại nhỏ. Xe hơi chỉ có taxi, các xe shuttle của các khách sạn đưa đón du khách, bưu điện và các hãng tiện ích công cộng như ga, điện, nước. Xe rác thấy chỉ có loại nhỏ với người phu mang từng thùng đến đổ vào. An ninh, trật tự trên đảo do lực lượng cảnh sát Sheriff Los Angeles phụ trách và họ di chuyển bằng xe SUV. Không có đèn giao thông xanh đỏ trên đảo và không thấy một trạm xăng nào.

Catalina là đảo nhỏ, thủ phủ trên đảo thành phố Avalon cũng rất nhỏ diện tích chỉ có 1 dặm vuông (1 square mile), đi năm ba phút cũng về chốn cũ nên phương tiện giao thông công cộng trên đảo rất giới hạn và người ta chỉ cần đi bộ hoặc xe đạp. Du khách có thể mang xe đạp ra đảo hoặc mướn xe đạp nhưng sử dụng xe đạp ở đây phải có giấy phép lệ phí đến $50 USD/năm. Chính quyền đảo rất giới hạn xe hơi và dân chúng trên đảo thường dùng xe điện loại dùng trong sân golf (golf carts) để di chuyển. Du khách nếu ngại đi bộ có thể mướn xe golf cart với giá khoảng $40/một giờ, có loại 2 ghế, 4 ghế và hơn nữa nhưng cũng không đi xa được vì tất cả các nơi cần viếng chỉ quanh quẩn ở Avalon, bến tàu, bãi tắm, hàng quán, khách sạn đều ít phút đi bộ.
Muốn ngoạn cảnh xa hơn như lên núi nhìn xuống thành phố, ngang qua những ngôi nhà nghỉ mát của tài tử màn bạc hay đi sâu vào đảo để khám phá cảnh đẹp thiên nhiên, gặp những con trâu rừng (American bison), du khách có thể tham gia những tour xe buýt. Có hai loại tour khám phá đảo: tour 2 tiếng đồng hồ đi sâu vào bên trong đảo có cơ hội thấy những con trâu rừng và tour đi gần quanh thành phố Avalon trong vòng khoảng 40 phút. Thật sự trâu rừng không có trên đảo nhưng vào năm 1924 khi quay phim “The Vanishing American” người ta đã mang ra 14 con trâu rừng, sau khi quay phim ngại đưa chúng trở về đất liền tốn tiền chuyên chở nên đã để chúng định cư luôn trên đảo. Ngày nay chúng sinh sôi phát triển thành một đàn trâu rừng khoảng 150 con.
Chúng tôi mua tour “Ngắm cảnh Avalon” (Avalon Scenic Tour) tại quày ở bến tàu khi mới vừa lên bờ. Tour này đi bằng xe buýt trong khoảng 40 phút cộng với thời gian thăm nhà bảo tàng do vậy khi hỏi tour kéo dài bao lâu, người bán trả lời là 1 tiếng 20 phút. Chúng tôi lên một xe buýt kiểu xưa, một ông Mỹ vừa làm tài xế vừa là hướng dẫn viên. Ða số người trong tour là một nhóm du khách người da đen có lẽ đến từ tiểu bang Louisiana, thấy vậy ông Mỹ nói bằng giọng của người miền Nam Hoa Kỳ. Ông lái xe chạy qua vài con đường chính Avalon chỉ cho thấy nhà thờ Thiên Chúa Giáo ở đường Beacon St., nhà bưu điện ở gần đó, rồi ông lái xe lên núi ngang qua sân golf, công viên chim, đến một thung lũng sâu xem người ta chơi đu dây ngang qua vực sâu gọi là trò chơi “Zip Line” (trò chơi này thấy quảng cáo là “sẽ du hành 3/4 mile cao độ 300 feet trên thung lũng với vận tốc 45 mile/giờ, giá $109). Xe chạy ngang qua những căn nhà của những tài tử màn bạc ngày trước như Marilyn Moroe, những khách sạn nghỉ dưỡng (resorts) và cuối cùng dừng lại tại ngôi nhà Casino để cho chúng tôi xem nhà bảo tàng Marilyn Monroe ở tầng dưới của nhà Casino. Vé vào nhà bảo tàng là $5 đã bao gồm trong chuyến tour này nên chúng tôi khỏi phải mua vé. Tới đây coi như tour ngắm cảnh thành phố Avalon chấm dứt và sau khi xem nhà bảo tàng chúng tôi tự do về lại trung tâm thành phố.

Nhà bảo tàng Marilyn Monroe
Trong nhà bảo tàng có chiếu đoạn phim về cuộc đời của cô đào điện ảnh Marilyn Monroe. Ðể thoát khỏi nhà nuôi trẻ mồ côi, cô gái Norma Jean Baker kết hôn vào năm 1942 lúc cô vừa tròn 16 tuổi. Chồng cô là người hàng xóm 20 tuổi tên James Dougherty, năm 1944, anh ta làm cho hãng thương thuyền và được đổi ra đảo Catalina. Tại đây người vợ trẻ hàng ngày chỉ biết làm công việc nội trợ trên hòn đảo du lịch được nhiều tài tử Hollywood chọn làm nơi ra vui chơi nghỉ mát. Khi ông chồng thuyên chuyển ra nước ngoài cũng là lúc Norma Jean trở về đất liền và bắt đầu dấn bước trên con đường để trở thành Marilyn Monroe sau này, cô đã ly dị chồng năm 1946. Ðó là nội dung của cuốn phim tài liệu “Before She Was Marilyn: Marilyn Monroe on Catalina Island” chúng tôi được xem, chiếu tại nhà bảo tàng. Nhà bảo tàng gồm những căn phòng trưng bày hình ảnh về cuộc đời của người mẫu, ca sĩ và minh tinh điện ảnh Marilyn Monroe. Cô có sắc đẹp quyến rũ, giọng ca nồng nàn và tài diễn xuất duyên dáng, cô tạo được tiền tài danh vọng nhưng cuộc đời cô đơn không hạnh phúc. Cô đã qua đời ở Hollywood ngày 5 Tháng Tám, 1962 vì sử dụng thuốc quá liều, thật là “hồng nhan đa truân” má hồng phận bạc!
Một nữ tài tử xinh đẹp nổi tiếng khác cũng chết tại đảo Catalina là Natalie Wood. Sau lễ Tạ Ơn năm 1981, Natalie Wood cùng chồng là tài tử Robert Wagner lái chiếc du thuyền của mình ra chơi đảo và trong đêm tối ngày 29 Tháng Mười Mộ, 1981, sau khi uống nhiều rượu cô đã tử nạn vì rơi xuống biển gần làng Two Harbor ở về phía Bắc đảo. Năm ấy cô mới 43 tuổi và được an táng ở nghĩa trang Westwood Village Memorial Park gần Hollywood.

Chỉ cách bờ 22 miles nhưng đảo Catalina như một thế giới khác, nơi đây biển nước trong xanh, nhà cửa tường trắng ngói đỏ cheo leo trên triền núi như ở Hy Lạp. Không tiếng xe cộ ồn ào mà chỉ nghe tiếng sóng vỗ, tiếng cười nói của du khách trong những nhà hàng, quán nước phong cách những ngày xa xưa, êm đềm tình tứ lãng mạn.

Ngôi nhà Casino là một kiến trúc to lớn nằm ở bờ biển Avalon thành phố duy nhất trên đảo Catalina. Tòa nhà màu trắng Catalina Casino được xây vào năm 1929 bởi ông vua sản xuất kẹo cao su (chewing gum) William Wrigley sau khi ông này đã mua nguyên đảo Catalina vào năm 1919. Ông xây ngôi nhà Casino không phải để mở sòng bài nhưng dùng như một rạp hát phía dưới và một vũ trường trên lầu, trong tiếng Ý “Casino” có nghĩa như là hội quán, một nơi gặp gỡ hội họp. Ngày nay nhà Casino là một danh thắng biểu tượng (landmark) cho hải đảo Catalina nằm ở ngoài khơi Quận Cam, California.


Sau khi xem xong nhà bảo tàng Marilyn Monroe tọa lạc trong một góc ở tầng phía dưới tòa nhà Casino, chúng tôi ra ngoài đi vòng quanh tòa nhà để tìm cửa chính vào Casino. Cho tới lúc đó tôi cứ tưởng rằng trong Casino chắc có sòng bài với những dàn máy kéo “Slot machines” nếu không rầm rộ như Las Vegas thì ít ra cũng cỡ như các sòng bài của người da đỏ ở Temecula phía Bắc San Diego (nói là của người da đỏ nhưng không biết họ có được chia chác nhiều không mà thấy chủ nhân là những tư bản da trắng?). Tôi hỏi một anh chàng nhân viên của Casino, anh ta có vẻ ngạc nhiên và trả lời là Casino không có sòng bài, máy kéo mà chỉ có rạp hát có show ca nhạc khi có người mướn và phía trên là vũ trường với sàn nhảy khi có tiếp tân hội họp. Hiện nay Casino như một di tích lịch sử, du khách muốn vào xem có thể mua vé tham dự tour “The Behind the Scenes” dài 50 phút, mỗi ngày chỉ có một tour.



Những tour đi xem Casino ngắn hơn thì có suốt ngày. Chúng tôi không có tham dự tour này nên không biết có gì thích thú không mà chỉ đi vòng quanh bên ngoài quan sát, ngoạn cảnh, chụp hình. Ba bề của tòa nhà Casino đều là biển xanh, nước rất trong nhìn thấy rừng rong biển dưới đáy, trên bờ trồng những hàng dừa “majestic palms” phong cảnh thật thơ mộng hữu tình không khác gì những vùng biển Ðịa Trung Hải bên trời Âu. Ở đây có khu dành riêng cho những người chơi lặn ngắm san hô, bên ngoài biển họ bao bọc bằng lưới để ngăn cá mập. Tôi thấy có những cặp vợ chồng cùng nhau lặn, mang kính, mặc đồ lặn bằng cao su, mang bình dưỡng khí, đi giày như chân con vịt.

Lịch sử đảo Catalina
Trước khi tìm hiểu về lịch sử tòa nhà Casino biểu tượng của đảo Catalina, thiết tưởng chúng ta nên lướt sơ qua về lịch sử đảo Catalina vì hai phần này liên hệ gắn liền nhau, lịch sử nhà Casino nằm trong lịch sử đảo Catalina. Trước thời kỳ văn minh, khoảng 7,000 năm BC đã có người da đỏ bộ lạc Tongva sinh sống trên đảo và họ gọi là đảo Pimu hay Pimugna và thường xuyên trao đổi sản vật với đất liền là vùng biển California và Baja California của Mễ Tây Cơ ngày nay.

Người Âu Châu đầu tiên đặt chân trên đảo là nhà thám hiểm Bồ Ðào Nha tên Juan Rodriguez Cabrillo làm việc cho Tây Ban Nha. Ngày 7 tháng 10, 1542 ông tuyên bố chủ quyền đảo thuộc Tây Ban Nha và có thể đảo là nơi ông được chôn cất sau khi qua đời. Hơn nửa thế kỷ sau một nhà thám hiểm Tây Ban Nha khác tên Sebastian Vizcaino đổ bộ lên đảo vào ngày lễ bổn mạng nữ thánh Catherine (24 tháng 11) năm 1602 nên Vizcaino lấy tên thánh nữ đặt tên đảo là Santa Catalina. Suốt 300 năm sau đó, đảo Santa Catalina trở thành cứ điểm cho nhiều nhóm người kể cả người Nga đi săn hải cẩu, các nhóm buôn lậu và hải tặc người Mỹ có lần đưa di dân lậu người Trung Hoa lên đảo để chờ tàu đưa vào California nên ngày nay trên đảo có địa danh là China Point. Các tu sĩ dòng Franciscan từng thiết lập nhà truyền giáo trên đảo nhưng phải bỏ dở ý định vì thiếu nước ngọt. Vào thập niên 1830 số dân da đỏ chánh gốc trên đảo không còn một ai, có thể đã chết hay di dân vào đất liền theo các nhà truyền giáo.

Sau đó Mễ Tây Cơ giành độc lập từ người Tây Ban Nha, cũng như các vùng đất miền Tây Nam Hoa Kỳ, California và đảo Catalina thuộc chủ quyền Mễ Tây Cơ. Ðến năm 1848 chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ kết thúc, nước Mễ bại trận phải ký hiệp ước nhường Texas và các vùng đất miền Tây cho Hoa Kỳ. Trong thời kỳ tìm vàng vào thập niên 1860 một số người cũng ra đảo tìm vàng nhưng không mấy kết qủa. Trong trận nội chiến Nam Bắc của Hoa Kỳ, e ngại tư nhân sẽ chiếm đảo nên chính quyền liên bang ra lệnh tất cả mọi người phải rời đảo vào đất liền và một đơn vị quân đội được gởi ra giữ đảo và đóng quân ở làng Two Harbors. Doanh trại của họ hiện là kiến trúc cổ xưa nhất trên đảo ngày nay là Hội Thuyền Buồm (Isthmus Yacht Club).

Vào cuối thế kỷ 19 đảo Catalina trở nên hoang địa không còn ai ở trong khi đó thành phố Los Angeles phát triển nhanh chóng dân số lên đến 50,000 vào năm 1890 và người ta dự định biến đảo Catalina thành nơi nghỉ mát. Nhà đầu tư địa ốc đầu tiên là George Shatto mua đảo với giá 200,000 USD và xây khách sạn Metropole là khách sạn đầu tiên ở Avalon. Ông là người có công xây dựng thành phố Avalon như làm đường sá, xây cầu tàu, mua một chiếc tàu chạy bằng hơi nước để hàng ngày chuyên chở hành khách hàng hóa từ đất liền ra đảo cũng như quảng bá đảo du lịch với dân chúng. Nhưng mộng ước của ông tan theo mây khói, chỉ vài năm sau ông không tiền trả nợ và đảo Catalina trở về chủ cũ là công ty địa ốc Lick. Người thứ nhì mua đảo là các con của ông Phineas Banning mua đảo vào năm 1891 và tiếp tục chương trình dang dở của ông Shatto, phát triển thêm các công trình trên đảo như tráng nhựa những con đường, xây nhà nghỉ cho thợ săn, xây khách sạn ở Two Harbors (hiện nay vẫn còn và là khách sạn duy nhất ở làng này). Không may cho anh em Banning vào ngày 29 tháng 11, 1915 một trận hỏa hoạn dữ dội thiêu rụi phân nửa thành phố Avalon trong đó có 6 khách sạn và một số câu lạc bộ. Anh em nan Bannings bị nợ ngập đầu thêm nữa trận Ðệ Nhất Thế Chiến khiến ngành du lịch trì trệ khiến họ phải bán các cổ phần cho vua sản xuất kẹo cao su (chewing gum) là William Wrigley Jr. vào năm 1919. Ông này nghĩ rằng muốn đảo có người ra chơi thì phương tiện vận chuyển phải hữu hiệu nên đã phát triển đội tàu tân tiến hơn, ông mua cả tàu chiến cũ như hai chiếc S.S. Cabrillo, S.S. Virginia mỗi chiếc có thể chở đến 1,500 hành khách. Tuy mang danh vua kẹo cao su nhưng ông rất hào phóng, ông còn đặt ra giải thưởng cho người bơi từ đất liền ra đảo và người thắng giải là tay bơi người Canada George Young bơi ra đảo mất 15 giờ 44 phút thắng giải được 25,000 USD, hai người phụ nữ về kế tiếp được 2,500 USD mỗi người. Nên nhớ tiền thời ấy rất có giá, vé tàu ra đảo lúc đó chỉ có 2.50 USD mỗi lượt! Vua kẹo cao su Wrigley cũng là người xây tòa nhà nổi tiếng Casino như chúng ta thấy ngày nay mỗi khi ra chơi đảo.

Trịnh Hảo Tâm

Wednesday, January 20, 2016

Cầu cổ London và thị trấn Laughlin

Tiểu bang sa mạc Arizona ngoài đại vực Grand Canyon sâu thẳm, Sedona núi đá đỏ còn có nhiều địa điểm du lịch khác nữa tuy không có thắng cảnh thiên nhiên hoành tráng nhưng cũng thu hút du khách đến chơi trong những kỳ nghỉ lễ.



Cây cầu cổ bằng đá London Bridge ở Lake Havasu, Arizona.



Như từ Sedona theo con đường 89A đi về hướng Nam 30 miles du khách sẽ gặp thị trấn Jerome nằm vắt vẻo trên sườn núi mà xe lên phải qua con đường chữ chi với những khúc quanh “cùi chỏ” rất lý thú ngoạn mục. Du khách dừng chân lại đây ăn bữa trưa với những món Mỹ hay Mễ Tây Cơ rồi lại tiếp tục xuống núi đi về thị trấn nghỉ mát Prescott cũng 30 miles trên con đường 89A về hướng Tây Nam. Phố núi Prescott nằm trên cao nguyên 5,354 feet còn cách Phoenix 100 miles. Năm 1863 khi Arizona sát nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ, Prescott được chọn làm thủ đô của vùng đất mới này. Về sau thủ phủ Arizona di chuyển về Tucson rồi Phoenix nên Prescott không phát triển gì thêm, ngày nay còn lại những tòa nhà cổ có kiến trúc Anh mà xưa kia là những cơ quan chính quyền được bảo tồn để du khách thăm viếng, sống lại thời kỳ đi tìm vàng với những tay cao bồi chọc trời khuấy nước.

Nếu du khách còn những ngày nghỉ rong chơi không muốn trở về Phoenix sa mạc giá lạnh thì lái xe ngược lên hướng Bắc bằng con đường 89 rồi đổi qua 40 West để ngang qua thành phố Kingman nhiều thông xanh rồi cũng theo 40 West đi 30 miles rẽ vào con đường nhỏ mang số 95 về hướng Nam để đến Lake Havasu City.
Lake Havasu City với cây cầu London
Tên gọi là cầu London nhưng cầu này không còn ở London nữa mà đã được di dời về biên giới giữa California và Arizona của nước Mỹ và bắc ngang dòng sông Colorado ở hồ Havasu. Sông Colorado phát nguyên trên vùng núi tuyết miền Bắc tiểu bang Colorado chảy ngoằn ngoèo theo hướng Tây Nam dài hơn 1,400 miles qua Grand Canyon rồi đổ vào hồ Lake Mead. Sau khi tràn ra khỏi hồ bằng đập nước vĩ đại Hoover Dam, dòng sông trở nên hiền hòa chảy về hướng Nam và đến đây sông mở rộng nên được gọi là hồ Havasu. Hồ Havasu du khách chơi thuyền rất đông cũng như những trò chơi trên nước như trượt nước hay mang dù bay bổng lên trời do ca nô kéo. Thành phố Lake Havasu City thuộc tiểu bang Arizona nhưng bờ bên kia sông lại thuộc California, ngày nay thành phố quy tụ những người Mỹ về hưu về đây sinh sống. Họ cho rằng giá nhà rẻ, không khí trong lành không ô nhiễm tuy rằng khí hậu nơi đây nóng vào mùa Hè là vì vùng sa mạc nhưng gần hồ nên cũng không đến nỗi nào!


Sòng bài Colorado Bells bên bờ sông Colorado ở Laughlin, Nevada.
Cầu London du khách tấp nập đông vui nhất là phía dưới chân cầu nơi đây có thể chụp những tấm hình thấy dòng sông xanh và chiếc cầu cổ theo kiểu Âu Châu ở hậu cảnh. Những cửa hàng bán đồ kỷ niệm, tranh ảnh, băng dĩa hoạt động rất huyên náo và những khách sạn nhà hàng ăn người ta tổ chức những tiệc cưới, chú rể trong tuxedo, cô dâu trong những chiếc áo cưới xúng xính đứng chụp những tấm hình kỷ niệm ngày cưới.
Hồ Havasu trở thành địa điểm du lịch là nhờ cây cầu London, nguyên thủy cây cầu bằng đá này bắc ngang sông Thames ở thủ đô Anh Quốc đã có hàng trăm năm. Giữa thập niên 1960 do nhu cầu giao thông phát triển, chánh quyền thành phố London muốn phá cây cầu đi để xây cầu mới rộng và vững chắc hơn. Nhằm bảo tồn một di tích cổ nên một người Mỹ tên Robert McCulloch quyết định mua lại chiếc cầu đá này với giá 2 triệu rưỡi đô la. Ông muốn chở về để dựng lại ở nước Mỹ và chính quyền vùng hồ Havasu đồng ý cho ông dựng lại chiếc cầu cũ ở đây, không nhằm vào mục đích giao thông xe cộ mà chỉ dùng làm cảnh, bắc từ bờ sang một đảo nhỏ giữa hồ và dưới chân cầu người ta xây một làng du lịch lấy tên là làng Ăng Lê (English Village) với kiến trúc và vườn cảnh theo kiểu Anh quốc. Ðể chở từ Anh Quốc về Mỹ, ông McCulloch thuê người ta tháo chiếc cầu ra thành những khối đá tổng cộng nặng trên 10,000 tấn rồi chuyên chở bằng tàu vượt Ðại Tây Dương và Thái Bình Dương về hải cảng Long Beach ở California. Sau đó đưa lên xe vận tải chở tiếp về đây và dựng lên năm 1968 và khu du lịch này hoàn thành năm 1971. Từ đó thu hút du khách về chơi ở đây rất đông đứng hạng nhì của tiểu bang Arizona chỉ sau Grand Canyon mà thôi. Chụp hình ở đây với chiếc cầu phía sau người xem ngỡ rằng cảnh ở Âu Châu!
Nhằm thu hút du khách về chơi, thành phố Lake Havasu tổ chức lễ hội quanh năm như chợ trời suốt ngày Chủ Nhật từ tháng 9 cho đến Tháng Năm, triển lãm các loại thủy phi cơ cổ điển, đua xe, hội chợ các loại khoáng sản, đá quý, nữ trang. Trong mùa Lễ Giáng Sinh và Tết Dương Lịch khu du lịch English Village sẽ thắp trên một triệu bóng đèn từ Lễ Tạ Ơn cho đến giữa Tháng Giêng và đầu Tháng Mười Hai hàng năm có cuộc diễn hành thuyền hoa đăng trên hồ. Lịch trình những lễ hội này độc giả có thể vào xem trong trang web của thành phố www.lake-havasu.com
Laughlin, Las Vegas thu nhỏ
Những ngày Hè du khách về chơi Las Vegas, không khí nóng cháy thường là 110 độ F trở lên! Ước gì Las Vegas có một bờ biển để sau những canh bạc căng thẳng miệt mài, du khách có thể ra nằm trên bờ biển hay tung tăng bơi lội dưới làn nước xanh mát. Laughlin chính là Las Vegas lại có bờ sông cát mịn chảy qua.
Rời hồ Havasu du khách trở lại xa lộ xuyên bang 40 đi về hướng Tây, qua cầu vượt sông Colorado. Qua khỏi thị trấn Needles rẽ tay mặt vào đường 95 để vào thành phố cờ bạc Laughlin. Thị trấn Needles thuộc California nhưng Laughlin thuộc Nevada nên luật lệ cho phép mở các sòng bài casino theo kiểu Las Vegas. Trước khi tới thành phố những du khách nào đang ngủ trên xe buýt sẽ giật mình thức giấc vì con đường nhảy sóng ít ra là trên 10 cái! Nhiều người nói rằng Laughlin cố tình làm đường nhảy sóng để du khách thức dậy chuẩn bị...đánh bài?


Các khách sạn sòng bài ở Laughlin.
Laughlin nằm cạnh bờ sông Colorado hiện có hơn một chục sòng bài và khách sạn với cả ngàn phòng cùng 60 nhà hàng với các tiện nghi giải trí khác. Tất cả các sòng bài đều nằm bên bờ sông phía Nevada, muốn sang bên kia bờ là đất Arizona có 2 cây cầu, một ngay tại thành phố và một cầu khác là đi trên đập thủy điện Davis. Ðập Davis được xây năm 1953 nhằm kiểm soát điều hòa lượng nước của sông Colorado để ngăn ngừa ngập lụt cũng như sản xuất ra điện để thành phố tiêu dùng. Trên thượng nguồn đập là hồ Mohave có trữ lượng nước là 1.8 triệu acre-feet, chỗ rộng nhất đến 4 miles với những bãi cát và vách đá quanh hồ cũng là nơi người ta chơi tàu thuyền, trượt nước.
Trước năm 1965 vùng Laughlin có tên là South Point thuộc quận Clark là một miền khô cằn đá sỏi không ai thèm đến. Năm 1964 ông Don Laughlin chủ nhân sòng bài 101 ở Las Vegas đi ngang qua vùng này, thấy dòng sông nước trong cá lội nên ông mua đất nơi đây và lập sòng bài Riverside Resort chỉ có 12 máy kéo slot machine và 2 bàn đánh bài cùng với 8 phòng ngủ mà 4 phòng thì dành riêng cho gia đình ông ở. Ðể lôi kéo khách đến, ông mở nhà hàng “All You Can Eat Chicken Dinners” với giá chỉ có 98 cents. Khách đến đông và lần hồi mở thêm nhiều motel và quán bar khác. Ông bưu điện trưởng nơi đây không biết đặt tên cho trạm bưu điện tên gì nên lấy tên ông chủ sòng bài đi tiên phong tại đây là Laughlin đặt tên cho trạm bưu điện rồi từ đó trở thành địa danh luôn.
Năm 1972, Riverside Resort được 48 phòng và 1986 được xây thành một buyn đinh cao 14 tầng, đây là tòa nhà cao tầng đầu tiên được xây dựng trong vùng. Năm 1967 sòng bài thứ hai được mở là Bobcat Club nay được đổi tên thành Golden Nugget Laughlin. Năm sau đến lượt Monte Carlo khai trương Casino thứ 3 tại đây. Trong thập niên 1980 nhiều Casino được xây dựng thêm như Pioneer, River Palms và Edgewater, sang đến thập niên kế tiếp là có các sòng bài như Colorado Belle, Harrah's Del Rio, Ramada Express và mới nhất là Flamingo Hilton.
Năm 1987, chính quyền xây cầu nối liền Laughlin với bờ sông bên kia nơi có phi trường và một số nhà trọ, ông Don Laughlin đã trả số tiền 3 triệu rưỡi cho chi phí xây cầu và ông tặng cây cầu này cho 2 tiểu bang ở hai bên bờ sông. Ðến với Laughlin ngoài thú vui đen đỏ trong các sòng bài, du khách còn được ngồi cạnh dòng sông ăn uống nhất là những nhà hàng Buffet với giá thật rẻ so với Las Vegas. Ngoài ra giá phòng khách sạn tại đây cũng rẻ nên có nhiều tour du lịch bằng xe buýt lộ trình Grand Canyon-Las Vegas 3 ngày 2 đêm chọn 1 đêm ngủ ở Laughlin. Tại các cầu tàu của các khách sạn dọc theo bờ sông còn có những chiếc thuyền máy Shuttle làm con thoi đưa khách qua lại miễn phí giữa các sòng bài. Muốn hưởng thú ngồi du thuyền kiểu thuyền máy hơi nước có 2 ống khói trên sông Mississippi, khách có thể xuống tàu của hãng Americana River Ride vừa chơi bài hay nhâm nhi cà phê chỉ với giá $10 cho chuyến du hành trên sông ngang các Casino sang trọng ban đêm rực rỡ ánh hoa đăng hay qua các bãi tắm dọc bờ sông, ban ngày nơi đó có những cô gái tóc vàng đang nằm phơi mình trên bãi cát.

Trịnh Hảo Tâm

Friday, January 1, 2016

THẠCH ĐỘNG ĐÔN HOÀNG

Đôn Hoàng - vùng đất phía Tây Bắc Trung Quốc - là điểm khởi đầu trên con đường giao thương hay còn được gọi là “con đường tơ lụa” giữa Trung Quốc và các nước Tây vực. Không chỉ đẹp về mặt vị thế, Đôn Hoàng còn là nơi chứa đựng nhiều kho báu nghệ thuật của người Trung Hoa cổ, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1987.
Hang đá Mạc Cao (tiếng Trung: 莫高窟, bính âm: mò gāo kū) là một hệ thống 492 ngôi đền cách trung tâm thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam TúcTrung Quốc 25 km về phía Đông Nam. Đây cũng được gọi là Thiên Phật Động(chữ Hán: 千佛洞; bính âmqiān fó dòng)[1], hay hang Đôn Hoàng. Các hang đá này thực sự không phải là động mà là các công trình chạm khắc trong đá, thuộc dạng kiến trúc chạm khắc đá.
Hang Mạc Cao là một ngôi nhà đá có quy mô lớn nhất, nội dung phong phú nhất và có giá trị nghệ thuật cao nhất Trung Quốc còn tồn tại cho đến ngày nay. Các tác phẩm nghệ thuật chủ yếu trong ngôi nhà đá này là các tượng điêu khắc và các bức bích họa. Hiện nay nơi này còn có 492 hang động, 45.000m² bích họa và 2415 pho tượng, 5 ngôi nhà gỗ từ đời ĐườngTống. Năm 1987 hang Mạc Cao đã được UNESCO công nhận là "Di sản văn hóa thế giới".
(Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Phía Tây hành lang Hà Tây, trên núi Minh Sa thuộc Đông Nam huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc, có một vách núi cao sừng sững, bên trên gồm rất nhiều thạch động trông như tổ ong. Đây chính là khu Mạc Cao nổi tiếng Trung Quốc.
Đôn Hoàng vốn có lịch sử lâu đời. Sách Thượng thư Vũ Cống ghi: “Tam Nguy tức trạch”. Tam Nguy tức Cổ Qua Châu, nay là động Đôn Hoàng. Hiện tại, phía Nam của động Đôn Hoàng cũng gọi là núi Tam Nguy. Sách thường chép: “Vũ Cống thuộc thời đại Chiến Quốc”. Như vậy, Đôn Hoàng đã có ít nhất hơn 2.000 năm lịch sử. Vào thời Hán Võ đế, Đôn Hoàng được sáp nhập vào bản đồ nhà Hán, và tên gọi Đôn Hoàng cũng bắt đầu từ đây. Hán thư Địa lý chí chép: “Đôn Hoàng đương thời có 11.200 hộ, hơn 38.000 dân khẩu”. Hán Ứng Thiệu giải thích danh từ Đôn Hoàng rằng: Đôn là đại, Hoàng là thạnh. Có thể thấy, Đôn Hoàng thời Hán Võ đế đã rất hưng thịnh.
Đôn Hoàng nổi tiếng hoàn toàn không phải do lịch sử lâu đời của nó, mà nổi tiếng nhờ vào những thạch động. Thạch khu Mạc Cao từ Nam chí Bắc dài 1.618m, nay còn lưu lại 492 khu; trong những thạch khu này, hiện bảo tồn hơn 1.000 pho tượng và bích họa tương đối hoàn hảo. Theo thống kê, nếu liên kết những bích họa này lại, chúng có độ dài từ 50-60 dặm. Do đó, Đôn Hoàng được xem là viện bảo tàng mỹ thuật lớn và hùng vĩ nhất trên thế giới. Thạch khu còn lưu trữ nhiều sách cổ, kinh điển, tranh lụa quý giá, thật lộng lẫy, đẹp mắt.
Thạch khu Mạc Cao Đôn Hoàng xây dụng sớm nhất vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, và thời Tùy Đường chính là giai đoạn phồn vinh nhất. Việc xây dựng thạch khu đầu tiên có liên quan đến một truyền thuyết ly kỳ như sau: Vào năm thứ 2 niên hiệu Kiến Nguyên Tiên Tần (năm 366), có một vị Hòa thượng hiệu Lạc Tôn vân du đến núi Tam Nguy phía Nam thành Đôn Hoàng. Lúc này, mặt trời sắp lặn, song Hòa thượng vẫn tìm không ra chỗ nghỉ. Ngài thất vọng dõi mắt nhìn ra xa. Đột nhiên, một cảnh tượng kỳ lạ xuất hiện: trên núi Tam Nguy phát ra luồng ánh sáng trang nghiêm sáng chói, tựa như ánh hào quang của chư Phật. Hòa thượng vô cùng xúc động, vội vàng đảnh lễ, và cho rằng đây là điềm chỉ thị của Đức Phật: “Nơi đây chính là thánh địa!”. Sau đó ngài vội hóa duyên khắp nơi, quyên góp được một số tiền lớn, mời người đến khai mở thạch khu. Khi thạch khu thứ nhất ở Mạc Cao xuất hiện, tứ chúng Phật tử khắp nơi đến chiêm bái. Không lâu sau, Thiền sư Pháp Lương từ phương Đông đến khai mở thêm thạch khu thứ hai bên cạnh thạch khu của ngài Lạc Tôn (Theo “Văn bia trùng tu Phật am khu Mạc Cao” của Lý Hoài Nhượng - niên hiệu Thánh Lịch, Võ Chu, đời Đường).
Kỳ thực, ánh sáng mà Hòa thượng Lạc Tôn thấy được, chỉ là sự phát xạ ánh sáng trên nham thạch lúc mặt trời sắp lặn. Cảnh tượng này bây giờ vẫn có thể nhìn thấy được. Vào thời đó, mọi người chưa lý giải được cảnh tượng tự nhiên này, họ lại sùng tín Phật giáo, nên cho rằng đó chính là ánh hào quang của chư Phật. Từ đó về sau, thạch khu Đôn Hoàng bắt đầu nổi tiếng, các viên quan địa phương, thương nhân, thường dân, thậm chí cả những vị đại thần, công chúa nước ngoài, vì cầu phúc mà tiếp tục khai mở các thạch khu lớn nhỏ khác nhau. Đến đời Đường, khu Mạc Cao đã trở thành thánh địa Phật giáo với hơn 1.000 thạch khu, cho nên cũng gọi là “Thiên Phật động”.
Nghệ thuật Đôn Hoàng không chỉ riêng ở khu Mạc Cao, mà còn ở tại Thiên Phật động, Du Lâm khu và Tiểu Thiên Phật động. Tuy nhiên, do số lượng tác phẩm, thành tựu nghệ thuật, cũng như được bảo tồn hoàn hảo nhất, nên thạch khu Mạc Cao nghiễm nhiên được chọn làm đại diện cho nghệ thuật Đôn Hoàng. Vì vậy, trong bài văn này, chúng tôi chỉ chủ yếu giới thiệu đến nghệ thuật của thạch khu Mạc Cao.
Nghệ thuật khu Mạc Cao chủ yếu là tượng và bích họa. Nghệ thuật gia cổ đại kế thừa truyền thống tiền đại, sáng tạo rất nhiều các pho tượng màu đặc sắc. Nhưng những pho tượng nơi đây đều bằng đất, khác với các pho tượng đá ở thạch khu Long Môn, Tân Cương. Vì chất liệu đá của núi Tam Nguy khá thô cứng, không thể tạc tượng được, cho nên các nghệ nhân mới dùng đất để tạc tượng. Với những dụng cụ đơn giản, điều kiện khó khăn, bằng sức tưởng tượng phong phú và kỹ xảo điêu luyện của mình, các nghệ nhân đã sáng tác không ít những pho tượng độc đáo màu mang nhiều sắc thái khác nhau.
Những pho tượng đời Bắc Ngụy dáng dấp to cao, trán rộng, mũi cao, mày dài, tóc quăn, ngực trần, mang đậm sắc thái nghệ thuật Ấn Độ. Những pho tượng đời Đường, gương mặt đầy đặn, nhu hòa, tai to, mũi thấp, dáng dấp không cân xứng, mang phong cách dân tộc Trung Quốc.
Đời Đường, tượng khu Mạc Cao đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Tổng cộng có hơn 670 pho tượng, chiếm hơn 1/4 trong số những pho tượng điêu khắc ở đây. Những pho tượng này hoàn toàn mang sắc thái riêng - nét mặt hài hòa, thần thái trang nghiêm, phục sức trang nhã. Tượng Thiên Vương thể hiện rõ phong cách của đấng trượng phu: oai nghiêm, chánh trực, dõng mãnh, cương nghị. Tượng Bồ tát dáng vẻ thoát tục, gương mặt đầy đặn, miệng mỉm cười, sinh động như thật, thể hiện nét đẹp hiện thực trong sinh hoạt của người phụ nữ đời Tùy Đường.
Theo thống kê, khu Mạc Cao tổng cộng có 2.415 pho tượng, trong đó tượng cao nhất hơn 30m, tương đương độ cao tiền môn lầu thành Bắc Kinh; tượng nhỏ nhất chỉ hơn 10cm, điêu khắc tinh xảo. Những pho tượng này không những thể hiện được tài năng sáng tạo, trí tuệ siêu việt của nghệ nhân cổ đại Trung Quốc, mà còn hình thành nên chiều dài lịch sử phát triển nền nghệ thuật tạc tượng qua các triều đại Trung Quốc.
Bích họa khu Mạc Cao càng đặc sắc hơn. Nghệ thuật gia dùng bút màu, họa rất nhiều cảnh sinh động trên tường vách. Nội dung chủ yếu của các bích họa gồm: kinh biến, bổn sanh, tôn tượng, tượng người cúng dường và các đồ trang sức.
Kinh biến: kinh, chỉ Phật kinh; biến, là biến dịch. Có nghĩa là những bức họa biến Phật kinh thành hình tượng hóa. Kinh biến, chính là tranh Phật kinh. Những bức họa này chiếm phần quan trọng trong thạch động. Như “Tây phương tịnh độ biến”, các họa sư dùng sức tưởng tượng của mình, họa cảnh Cực lạc thế giới: Cung điện lầu đài nguy nga tráng lệ, ao nước thanh khiết, bồ đề xinh tươi, thiên không tường vân bay, trong ao thủy điểu dang rộng cánh, chính giữa là Phật Di Đà đoan tọa trên tòa sen, hai bên là hai vị Bồ tát Quan Âm và Đại Thế Chí, cùng rất nhiều Thánh chúng vây quanh.
Bổn sanh: Bổn sanh là chỉ những câu chuyện tiền thân Đức Phật Thích Ca. Tứ chúng Phật tử tin vào thuyết luân hồi, cho rằng Phật Thích Ca trước khi thành đạo đã trải qua nhiều kiếp, có kiếp là quốc vương, tăng sĩ, thương nhân... làm rất nhiều việc thiện cứu độ chúng sanh, đây là những câu chuyện chủ yếu trong kinh Bổn Sanh. Điển hình như phía Bắc thạch động số 275, có bức bích họa mô tả câu chuyện vua Thi Tì, vì cứu chim bồ câu sắp bị chim ưng ăn thịt, đã hiến thịt mình cho chim ưng. Trong bích họa, bên cạnh vua Thi Tì là một người đàn ông ngồi cắt thịt, cắt rất nhiều, nhưng vẫn không bằng trọng lượng chim bồ câu, cuối cùng đành phải lấy thân thể vua làm trái cân, và bồ câu được đặt trên bàn cân. Thạch khu số 254, họa câu chuyện bổn sanh của thái tử Tát Đóa Na. Bích họa miêu tả 3 vương tử cưỡi ngựa đi săn, giữa đường trông thấy một con cọp đói, trừng mắt nhìn 7 con cọp con vừa sinh của mình. Xem chừng, nếu không có gì lót dạ, e rằng nó sẽ ăn thịt 7 cọp con. Thái tử Tát Đóa Na cảm thương cọp con, quyết định hy sinh mạng sống của mình để cứu chúng. Thái tử để các anh đi trước, còn mình cởi áo quần, nằm trước mặt cọp mẹ. Qua hồi lâu, hai người anh không thấy em đâu, mới đi tìm, trông thấy áo quần và hài cốt của em, đau lòng bất tỉnh. Quốc vương và hoàng hậu sau khi nghe tin, đau buồn vô hạn, liền cho kiến tạo một ngôi bảo tháp ngay nơi thái tử xả thân để an táng di cốt thái tử...
Tôn tượng: là ảnh vẽ tượng Phật, Bồ tát, A la hán, tiểu thiên Phật, thuyết pháp đồ... Trong bích họa tôn tượng, gây sự chú ý nhất là tượng phi thiên. Phi thiên là hình ảnh tiên nhân trong trí tượng tượng của người cổ đại, tự do bay lượn trên không, Phật giáo gọi là “Thần Hương Âm”, có thể tấu nhạc, nhảy múa, toàn thân tỏa hương. Đạo Gia Tô phương Tây cũng có tiên, gọi là thiên sứ. Thiên sứ có đôi cánh, có thể bay. Đạo giáo cũng tin tưởng có tiên, thường vẽ những đám mây dưới chân các vị tiên, biểu đạt chư tiên cưỡi mây bay. Tuy nhiên, phi thiên trong những bích họa khu Mạc Cao kết hợp cả hai thuyết trên. Các họa sư giỏi chỉ cần vẽ trên thân chư thiên hai dây phiêu đai, một xoay một gấp, thư thái nên trông các vi tiên trở nên nhẹ nhàng, uyển chuyển như đang bay. Phương pháp này đơn giản, khéo léo, lại giàu óc tưởng tượng.
Tượng người cúng dường: chỉ người xuất tiền cúng dường kiến tạo thạch khu, họ muốn họa hình ảnh mình trên tường vách, muốn thể hiện Phật tượng trong thạch động là do chính họ cúng dường, và như vậy, Phật và Bồ tát sẽ hộ trì cho họ. Những người cúng dường này là người có thật trong xã hội, có tên có tuổi đàng hoàng. Trong số họ có công tôn quý tộc, cũng có người ở vào địa vị thấp kém nhất. Như thạch khu số 107, có tượng của các kỹ nữ v.v...
Những pho tượng và bích họa này đã mô tả lịch sử thời đại một cách sống động. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống hiện thực, tôn giáo vào thời đó. Xuyên qua tầng lớp mê tín, màn che thần Phật, chúng ta mới có thể nhận ra diện mạo thời đại một cách cụ thể, quan hệ giữa người và người, giữa giai cấp với giai cấp... Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, xã hội loạn lạc, Nam Bắc Trường Giang, Hán tộc và bộ tộc du mục kiến lập chính quyền, chinh chiến không ngừng, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đan chéo nhau, nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Những điều này cấu thành một bộ phận chủ yếu trong bích họa thạch khu. Mặc dù nghệ thuật khu Mạc Cao đa phần là câu chuyện Phật kinh, nhưng với tay nghề họa sư kỹ thuật cao, có lúc họ cũng vẽ lại những cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện thực, càng thể hiện được thành tựu lớn của nghệ thuật thạch khu Mạc Cao.
Như trong bích họa phía Nam của thạch khu số 285, chúng ta thấy 5 tên cướp bị quan quân vây bắt, và bị đưa ra phán quyết. Một kẻ thống trị mão cao đai rộng, tuyên án: móc mắt. Thế là những tên cướp này bị tước hết áo quần, bị móc đi hai mắt, vứt ngoài đồng trống, cầu sống cũng không được, muốn chết cũng không xong. Thật không gì bi thảm bằng!
Một bích họa khác miêu tả cảnh tượng cuộc sống ở gần Phổ Đà Sơn. Trong tranh có rất nhiều lữ quán: quán Long Tuyền có người đang giã gạo, quán Linh Khẩu có người đang đẩy cối xay, quán Thái Nguyên có người đang mài dao; trong chùa có người đang hội yến, các tăng sĩ đang hoạt động; trên đường người đi kẻ lại, không khí thật náo nhiệt. Đây là bức tranh sinh động của Ngũ Đài Sơn đầu đời Tống. Trong bích họa thạch khu số 45, chúng ta có thể thấy được một số thương buôn người Hồ, mũi cao, mắt sâu, râu cằm rậm đang lùa đàn lừa thồ đầy hàng, đi vào sơn cốc. Đột nhiên, đoàn thương buôn gặp cường đạo, họ chắp tay cầu xin tha mạng, hàng hóa rơi vãi đầy trên đất. Bức họa phản ánh được cảnh mậu dịch Trung ngoại...
Những bích họa sinh động này không chỉ mang nghệ thuật tôn giáo, mà còn là bức tranh lịch sử, là di sản văn hóa xán lạn, huy hoàng của dân tộc Trung Hoa, miêu tả được hiện thực xã hội, thể hiện rõ hỷ nộ ái ố của con người, đồng thời, cũng phản ánh sự tàn bạo, dối trá của giai cấp thống trị.
Thời kỳ Minh Thanh về sau, thạch khu Mạc Cao bị vùi trong sa mạc, không người chú ý đến, mãi đến năm 1900, khu Mạc Cao mới bắt đầu khôi phục lại.
Ngày 26-5-1900, đạo sĩ Vương Viên Lục cư trú tại khu Mạc Cao, lúc thanh lý cát, phát hiện bức tường hướng Bắc có vết nứt. Đâu ngờ rằng, lần phát hiện ngẫu nhiên này trở thành sự kiện trọng đại trong lịch sử văn hóa loài người thế kỷ XX.
Vương đạo sĩ thuận tay gõ vào bức tường, phát hiện bên trong vang vọng âm thanh trống rỗng. Ông Vương phá tường, thấy một cánh cửa nhỏ, bên trong cửa là một gian phòng chất đầy những vật trân quý, như: kinh quyển, văn thư, tranh lụa, hội họa, pháp khí... Nơi đây sau này gọi là Tàng kinh động. Trong những đồ vật phát hiện, có một số tư liệu văn hiến vô cùng quý giá của xã hội phong kiến 1.000 năm, là báu vật của dân tộc Trung Hoa.
Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ, thời kỳ Tây Hạ thống trị Đôn Hoàng (sau 1049), Hòa thượng ở khu Mạc Cao vì lánh nạn, nên đem lịch sử bảo tạng đặt trong gian phòng này, bên ngoài kiến lập một bức tường phong lấp. Sau khi chiến loạn kết thúc, các vị Hòa thượng không ai trở lại, gian phòng trở nên bí mật không người biết đến.
Vương đạo sĩ hoàn toàn không biết được giá trị của đồ vật, nên tự ý đem một ít trong số đồ vật này tặng cho huyện trưởng Uông Tông Hạn. Ông Hạn lại đem tặng cho Diệp Xương Xí . Ông Xí là một học gia kim thạch nổi tiếng, nên đối với những di vật này vô cùng trân quý. Nhưng triều đình nhà Thanh bấy giờ thối nát, không lưu tâm đến những văn vật như thế này. Vì thế, từng đoàn thám hiểm nước ngoài, như Anh, Nga, Hungary, Pháp... đến khu Mạc Cao tìm báu vật, một số lượng lớn bảo vật bị họ mang đi, làm hư hỏng nặng một số bích họa, mãi đến khi bảo vật khu Mạc Cao chẳng còn lại bao nhiêu thì người Trung Quốc mới bắt đầu quan tâm đến.
Thời gian giải phóng, khu Mạc Cao được Đảng và Chính phủ biết đến; năm 1950, Sở Nghiên cứu Văn vật Đôn Hoàng được thành lập, khu Mạc Cao qua đó được trùng tu. Viên minh châu trên Con đường tơ lụa này bắt đầu phát sáng!
Ngày nay, nghệ thuật Đôn Hoàng được các học giả thế giới chú ý đến, tiến hành nghiên cứu rộng rãi, hình thành một chuyên ngành nghiên cứu,Phía Tây hành lang Hà Tây, trên núi Minh Sa thuộc Đông Nam huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc, có một vách núi cao sừng sững, bên trên gồm rất nhiều thạch động trông như tổ ong. Đây chính là khu Mạc Cao nổi tiếng Trung Quốc.
Đôn Hoàng vốn có lịch sử lâu đời. Sách Thượng thư Vũ Cống ghi: “Tam Nguy tức trạch”. Tam Nguy tức Cổ Qua Châu, nay là động Đôn Hoàng. Hiện tại, phía Nam của động Đôn Hoàng cũng gọi là núi Tam Nguy. Sách thường chép: “Vũ Cống thuộc thời đại Chiến Quốc”. Như vậy, Đôn Hoàng đã có ít nhất hơn 2.000 năm lịch sử. Vào thời Hán Võ đế, Đôn Hoàng được sáp nhập vào bản đồ nhà Hán, và tên gọi Đôn Hoàng cũng bắt đầu từ đây. Hán thư Địa lý chí chép: “Đôn Hoàng đương thời có 11.200 hộ, hơn 38.000 dân khẩu”. Hán Ứng Thiệu giải thích danh từ Đôn Hoàng rằng: Đôn là đại, Hoàng là thạnh. Có thể thấy, Đôn Hoàng thời Hán Võ đế đã rất hưng thịnh.
Đôn Hoàng nổi tiếng hoàn toàn không phải do lịch sử lâu đời của nó, mà nổi tiếng nhờ vào những thạch động. Thạch khu Mạc Cao từ Nam chí Bắc dài 1.618m, nay còn lưu lại 492 khu; trong những thạch khu này, hiện bảo tồn hơn 1.000 pho tượng và bích họa tương đối hoàn hảo. Theo thống kê, nếu liên kết những bích họa này lại, chúng có độ dài từ 50-60 dặm. Do đó, Đôn Hoàng được xem là viện bảo tàng mỹ thuật lớn và hùng vĩ nhất trên thế giới. Thạch khu còn lưu trữ nhiều sách cổ, kinh điển, tranh lụa quý giá, thật lộng lẫy, đẹp mắt.
Thạch khu Mạc Cao Đôn Hoàng xây dụng sớm nhất vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, và thời Tùy Đường chính là giai đoạn phồn vinh nhất. Việc xây dựng thạch khu đầu tiên có liên quan đến một truyền thuyết ly kỳ như sau: Vào năm thứ 2 niên hiệu Kiến Nguyên Tiên Tần (năm 366), có một vị Hòa thượng hiệu Lạc Tôn vân du đến núi Tam Nguy phía Nam thành Đôn Hoàng. Lúc này, mặt trời sắp lặn, song Hòa thượng vẫn tìm không ra chỗ nghỉ. Ngài thất vọng dõi mắt nhìn ra xa. Đột nhiên, một cảnh tượng kỳ lạ xuất hiện: trên núi Tam Nguy phát ra luồng ánh sáng trang nghiêm sáng chói, tựa như ánh hào quang của chư Phật. Hòa thượng vô cùng xúc động, vội vàng đảnh lễ, và cho rằng đây là điềm chỉ thị của Đức Phật: “Nơi đây chính là thánh địa!”. Sau đó ngài vội hóa duyên khắp nơi, quyên góp được một số tiền lớn, mời người đến khai mở thạch khu. Khi thạch khu thứ nhất ở Mạc Cao xuất hiện, tứ chúng Phật tử khắp nơi đến chiêm bái. Không lâu sau, Thiền sư Pháp Lương từ phương Đông đến khai mở thêm thạch khu thứ hai bên cạnh thạch khu của ngài Lạc Tôn (Theo “Văn bia trùng tu Phật am khu Mạc Cao” của Lý Hoài Nhượng - niên hiệu Thánh Lịch, Võ Chu, đời Đường).
Kỳ thực, ánh sáng mà Hòa thượng Lạc Tôn thấy được, chỉ là sự phát xạ ánh sáng trên nham thạch lúc mặt trời sắp lặn. Cảnh tượng này bây giờ vẫn có thể nhìn thấy được. Vào thời đó, mọi người chưa lý giải được cảnh tượng tự nhiên này, họ lại sùng tín Phật giáo, nên cho rằng đó chính là ánh hào quang của chư Phật. Từ đó về sau, thạch khu Đôn Hoàng bắt đầu nổi tiếng, các viên quan địa phương, thương nhân, thường dân, thậm chí cả những vị đại thần, công chúa nước ngoài, vì cầu phúc mà tiếp tục khai mở các thạch khu lớn nhỏ khác nhau. Đến đời Đường, khu Mạc Cao đã trở thành thánh địa Phật giáo với hơn 1.000 thạch khu, cho nên cũng gọi là “Thiên Phật động”.
Nghệ thuật Đôn Hoàng không chỉ riêng ở khu Mạc Cao, mà còn ở tại Thiên Phật động, Du Lâm khu và Tiểu Thiên Phật động. Tuy nhiên, do số lượng tác phẩm, thành tựu nghệ thuật, cũng như được bảo tồn hoàn hảo nhất, nên thạch khu Mạc Cao nghiễm nhiên được chọn làm đại diện cho nghệ thuật Đôn Hoàng. Vì vậy, trong bài văn này, chúng tôi chỉ chủ yếu giới thiệu đến nghệ thuật của thạch khu Mạc Cao.
Nghệ thuật khu Mạc Cao chủ yếu là tượng và bích họa. Nghệ thuật gia cổ đại kế thừa truyền thống tiền đại, sáng tạo rất nhiều các pho tượng màu đặc sắc. Nhưng những pho tượng nơi đây đều bằng đất, khác với các pho tượng đá ở thạch khu Long Môn, Tân Cương. Vì chất liệu đá của núi Tam Nguy khá thô cứng, không thể tạc tượng được, cho nên các nghệ nhân mới dùng đất để tạc tượng. Với những dụng cụ đơn giản, điều kiện khó khăn, bằng sức tưởng tượng phong phú và kỹ xảo điêu luyện của mình, các nghệ nhân đã sáng tác không ít những pho tượng độc đáo màu mang nhiều sắc thái khác nhau.
Những pho tượng đời Bắc Ngụy dáng dấp to cao, trán rộng, mũi cao, mày dài, tóc quăn, ngực trần, mang đậm sắc thái nghệ thuật Ấn Độ. Những pho tượng đời Đường, gương mặt đầy đặn, nhu hòa, tai to, mũi thấp, dáng dấp không cân xứng, mang phong cách dân tộc Trung Quốc.
Đời Đường, tượng khu Mạc Cao đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Tổng cộng có hơn 670 pho tượng, chiếm hơn 1/4 trong số những pho tượng điêu khắc ở đây. Những pho tượng này hoàn toàn mang sắc thái riêng - nét mặt hài hòa, thần thái trang nghiêm, phục sức trang nhã. Tượng Thiên Vương thể hiện rõ phong cách của đấng trượng phu: oai nghiêm, chánh trực, dõng mãnh, cương nghị. Tượng Bồ tát dáng vẻ thoát tục, gương mặt đầy đặn, miệng mỉm cười, sinh động như thật, thể hiện nét đẹp hiện thực trong sinh hoạt của người phụ nữ đời Tùy Đường.
Theo thống kê, khu Mạc Cao tổng cộng có 2.415 pho tượng, trong đó tượng cao nhất hơn 30m, tương đương độ cao tiền môn lầu thành Bắc Kinh; tượng nhỏ nhất chỉ hơn 10cm, điêu khắc tinh xảo. Những pho tượng này không những thể hiện được tài năng sáng tạo, trí tuệ siêu việt của nghệ nhân cổ đại Trung Quốc, mà còn hình thành nên chiều dài lịch sử phát triển nền nghệ thuật tạc tượng qua các triều đại Trung Quốc.
Bích họa khu Mạc Cao càng đặc sắc hơn. Nghệ thuật gia dùng bút màu, họa rất nhiều cảnh sinh động trên tường vách. Nội dung chủ yếu của các bích họa gồm: kinh biến, bổn sanh, tôn tượng, tượng người cúng dường và các đồ trang sức.
Kinh biến: kinh, chỉ Phật kinh; biến, là biến dịch. Có nghĩa là những bức họa biến Phật kinh thành hình tượng hóa. Kinh biến, chính là tranh Phật kinh. Những bức họa này chiếm phần quan trọng trong thạch động. Như “Tây phương tịnh độ biến”, các họa sư dùng sức tưởng tượng của mình, họa cảnh Cực lạc thế giới: Cung điện lầu đài nguy nga tráng lệ, ao nước thanh khiết, bồ đề xinh tươi, thiên không tường vân bay, trong ao thủy điểu dang rộng cánh, chính giữa là Phật Di Đà đoan tọa trên tòa sen, hai bên là hai vị Bồ tát Quan Âm và Đại Thế Chí, cùng rất nhiều Thánh chúng vây quanh.
Bổn sanh: Bổn sanh là chỉ những câu chuyện tiền thân Đức Phật Thích Ca. Tứ chúng Phật tử tin vào thuyết luân hồi, cho rằng Phật Thích Ca trước khi thành đạo đã trải qua nhiều kiếp, có kiếp là quốc vương, tăng sĩ, thương nhân... làm rất nhiều việc thiện cứu độ chúng sanh, đây là những câu chuyện chủ yếu trong kinh Bổn Sanh. Điển hình như phía Bắc thạch động số 275, có bức bích họa mô tả câu chuyện vua Thi Tì, vì cứu chim bồ câu sắp bị chim ưng ăn thịt, đã hiến thịt mình cho chim ưng. Trong bích họa, bên cạnh vua Thi Tì là một người đàn ông ngồi cắt thịt, cắt rất nhiều, nhưng vẫn không bằng trọng lượng chim bồ câu, cuối cùng đành phải lấy thân thể vua làm trái cân, và bồ câu được đặt trên bàn cân. Thạch khu số 254, họa câu chuyện bổn sanh của thái tử Tát Đóa Na. Bích họa miêu tả 3 vương tử cưỡi ngựa đi săn, giữa đường trông thấy một con cọp đói, trừng mắt nhìn 7 con cọp con vừa sinh của mình. Xem chừng, nếu không có gì lót dạ, e rằng nó sẽ ăn thịt 7 cọp con. Thái tử Tát Đóa Na cảm thương cọp con, quyết định hy sinh mạng sống của mình để cứu chúng. Thái tử để các anh đi trước, còn mình cởi áo quần, nằm trước mặt cọp mẹ. Qua hồi lâu, hai người anh không thấy em đâu, mới đi tìm, trông thấy áo quần và hài cốt của em, đau lòng bất tỉnh. Quốc vương và hoàng hậu sau khi nghe tin, đau buồn vô hạn, liền cho kiến tạo một ngôi bảo tháp ngay nơi thái tử xả thân để an táng di cốt thái tử...
Tôn tượng: là ảnh vẽ tượng Phật, Bồ tát, A la hán, tiểu thiên Phật, thuyết pháp đồ... Trong bích họa tôn tượng, gây sự chú ý nhất là tượng phi thiên. Phi thiên là hình ảnh tiên nhân trong trí tượng tượng của người cổ đại, tự do bay lượn trên không, Phật giáo gọi là “Thần Hương Âm”, có thể tấu nhạc, nhảy múa, toàn thân tỏa hương. Đạo Gia Tô phương Tây cũng có tiên, gọi là thiên sứ. Thiên sứ có đôi cánh, có thể bay. Đạo giáo cũng tin tưởng có tiên, thường vẽ những đám mây dưới chân các vị tiên, biểu đạt chư tiên cưỡi mây bay. Tuy nhiên, phi thiên trong những bích họa khu Mạc Cao kết hợp cả hai thuyết trên. Các họa sư giỏi chỉ cần vẽ trên thân chư thiên hai dây phiêu đai, một xoay một gấp, thư thái nên trông các vi tiên trở nên nhẹ nhàng, uyển chuyển như đang bay. Phương pháp này đơn giản, khéo léo, lại giàu óc tưởng tượng.
Tượng người cúng dường: chỉ người xuất tiền cúng dường kiến tạo thạch khu, họ muốn họa hình ảnh mình trên tường vách, muốn thể hiện Phật tượng trong thạch động là do chính họ cúng dường, và như vậy, Phật và Bồ tát sẽ hộ trì cho họ. Những người cúng dường này là người có thật trong xã hội, có tên có tuổi đàng hoàng. Trong số họ có công tôn quý tộc, cũng có người ở vào địa vị thấp kém nhất. Như thạch khu số 107, có tượng của các kỹ nữ v.v...
Những pho tượng và bích họa này đã mô tả lịch sử thời đại một cách sống động. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống hiện thực, tôn giáo vào thời đó. Xuyên qua tầng lớp mê tín, màn che thần Phật, chúng ta mới có thể nhận ra diện mạo thời đại một cách cụ thể, quan hệ giữa người và người, giữa giai cấp với giai cấp... Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, xã hội loạn lạc, Nam Bắc Trường Giang, Hán tộc và bộ tộc du mục kiến lập chính quyền, chinh chiến không ngừng, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đan chéo nhau, nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Những điều này cấu thành một bộ phận chủ yếu trong bích họa thạch khu. Mặc dù nghệ thuật khu Mạc Cao đa phần là câu chuyện Phật kinh, nhưng với tay nghề họa sư kỹ thuật cao, có lúc họ cũng vẽ lại những cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện thực, càng thể hiện được thành tựu lớn của nghệ thuật thạch khu Mạc Cao.
Như trong bích họa phía Nam của thạch khu số 285, chúng ta thấy 5 tên cướp bị quan quân vây bắt, và bị đưa ra phán quyết. Một kẻ thống trị mão cao đai rộng, tuyên án: móc mắt. Thế là những tên cướp này bị tước hết áo quần, bị móc đi hai mắt, vứt ngoài đồng trống, cầu sống cũng không được, muốn chết cũng không xong. Thật không gì bi thảm bằng!
Một bích họa khác miêu tả cảnh tượng cuộc sống ở gần Phổ Đà Sơn. Trong tranh có rất nhiều lữ quán: quán Long Tuyền có người đang giã gạo, quán Linh Khẩu có người đang đẩy cối xay, quán Thái Nguyên có người đang mài dao; trong chùa có người đang hội yến, các tăng sĩ đang hoạt động; trên đường người đi kẻ lại, không khí thật náo nhiệt. Đây là bức tranh sinh động của Ngũ Đài Sơn đầu đời Tống. Trong bích họa thạch khu số 45, chúng ta có thể thấy được một số thương buôn người Hồ, mũi cao, mắt sâu, râu cằm rậm đang lùa đàn lừa thồ đầy hàng, đi vào sơn cốc. Đột nhiên, đoàn thương buôn gặp cường đạo, họ chắp tay cầu xin tha mạng, hàng hóa rơi vãi đầy trên đất. Bức họa phản ánh được cảnh mậu dịch Trung ngoại...
Những bích họa sinh động này không chỉ mang nghệ thuật tôn giáo, mà còn là bức tranh lịch sử, là di sản văn hóa xán lạn, huy hoàng của dân tộc Trung Hoa, miêu tả được hiện thực xã hội, thể hiện rõ hỷ nộ ái ố của con người, đồng thời, cũng phản ánh sự tàn bạo, dối trá của giai cấp thống trị.
Thời kỳ Minh Thanh về sau, thạch khu Mạc Cao bị vùi trong sa mạc, không người chú ý đến, mãi đến năm 1900, khu Mạc Cao mới bắt đầu khôi phục lại.
Ngày 26-5-1900, đạo sĩ Vương Viên Lục cư trú tại khu Mạc Cao, lúc thanh lý cát, phát hiện bức tường hướng Bắc có vết nứt. Đâu ngờ rằng, lần phát hiện ngẫu nhiên này trở thành sự kiện trọng đại trong lịch sử văn hóa loài người thế kỷ XX.
Vương đạo sĩ thuận tay gõ vào bức tường, phát hiện bên trong vang vọng âm thanh trống rỗng. Ông Vương phá tường, thấy một cánh cửa nhỏ, bên trong cửa là một gian phòng chất đầy những vật trân quý, như: kinh quyển, văn thư, tranh lụa, hội họa, pháp khí... Nơi đây sau này gọi là Tàng kinh động. Trong những đồ vật phát hiện, có một số tư liệu văn hiến vô cùng quý giá của xã hội phong kiến 1.000 năm, là báu vật của dân tộc Trung Hoa.
Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ, thời kỳ Tây Hạ thống trị Đôn Hoàng (sau 1049), Hòa thượng ở khu Mạc Cao vì lánh nạn, nên đem lịch sử bảo tạng đặt trong gian phòng này, bên ngoài kiến lập một bức tường phong lấp. Sau khi chiến loạn kết thúc, các vị Hòa thượng không ai trở lại, gian phòng trở nên bí mật không người biết đến.
Vương đạo sĩ hoàn toàn không biết được giá trị của đồ vật, nên tự ý đem một ít trong số đồ vật này tặng cho huyện trưởng Uông Tông Hạn. Ông Hạn lại đem tặng cho Diệp Xương Xí . Ông Xí là một học gia kim thạch nổi tiếng, nên đối với những di vật này vô cùng trân quý. Nhưng triều đình nhà Thanh bấy giờ thối nát, không lưu tâm đến những văn vật như thế này. Vì thế, từng đoàn thám hiểm nước ngoài, như Anh, Nga, Hungary, Pháp... đến khu Mạc Cao tìm báu vật, một số lượng lớn bảo vật bị họ mang đi, làm hư hỏng nặng một số bích họa, mãi đến khi bảo vật khu Mạc Cao chẳng còn lại bao nhiêu thì người Trung Quốc mới bắt đầu quan tâm đến.
Thời gian giải phóng, khu Mạc Cao được Đảng và Chính phủ biết đến; năm 1950, Sở Nghiên cứu Văn vật Đôn Hoàng được thành lập, khu Mạc Cao qua đó được trùng tu. Viên minh châu trên Con đường tơ lụa này bắt đầu phát sáng!
Ngày nay, nghệ thuật Đôn Hoàng được các học giả thế giới chú ý đến, tiến hành nghiên cứu rộng rãi, hình thành một chuyên ngành nghiên cứu, gọi là Đôn Hoàng học, đã nhiều lần tổ chức hội thảo Đôn Hoàng học có quy mô thế giới. Nền nghệ thuật lâu đời Đôn Hoàng đã được các nước biết đến, những tác phẩm nghệ thuật này trở thành báu vật quý hiếm trên toàn thế giới.
 gọi là Đôn Hoàng học, đã nhiều lần tổ chức hội thảo Đôn Hoàng học có quy mô thế giới. Nền nghệ thuật lâu đời Đôn Hoàng đã được các nước biết đến, những tác phẩm nghệ thuật này trở thành báu vật quý hiếm trên toàn thế giới.


Tâm Hiếu
 














Phong cách nghệ thuật của những bức bích họa trong động Đôn Hoàng chịu ảnh hưởng của 2 phong cách bích họa Trung Nguyên. Các bức theo phong cách Tào gia có hình Phật mặc áo cà sa nhiều nếp gấp, vải mềm như bị ướt nước. Phong cách thứ 2 là phong cách bích họa đời Đường, chú trọng vào quần áo, cân đai của nhân vật.

Hang động ở Đôn Hoàng được vinh danh là thiên hạ đệ nhất động bởi sở hữu một quần thể lên tới 492 hang động và hơn 2.400 bức tượng Phật, cùng vô vàn bức bích họa, trải dài trên diện tích 45.000 m2.