
Cửa Đông (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Hầu hết thành lũy cổ đều ra đời dưới thời các Vua Chúa triều Nguyễn: Gia Định thành, cổ thành Quảng Trị, thành Đồng Hới, thành Diên Khánh. Thành thường đặt nơi trọng yếu đông cư dân, trung tâm tỉnh lỵ. Riêng thành Diên Khánh nằm cách thành phố Nha Trang chừng 10km về phía Nam, địa phận khóm Đông Môn, thị trấn Diên Khánh. Vùng đất màu mỡ này nằm bên dòng sông Cái hiền hòa, đã trải qua biết bao sự kiện lịch sử, qua nhiều đổi thay để được định hình như ngày hôm nay.
Sống và làm việc tại Nha Trang nhiều chục năm, nhưng tôi chưa hề tìm hiểu về lịch sử cũng như vóc dáng của ngôi thành cổ này. Mỗi khi có việc vào cửa Đông ra cửa Tây, tôi cứ nghĩ mình đã biết rồi, chẳng có gì thắc mắc để tâm. Giá mà có dạy môn sử thì chắc không phải chờ đến hôm nay, sau nhiều năm ở xứ người trở về, mới đi tìm tòa Hoàng Cung ngày xưa xem nay ra sao, có đúng như những điều luân lưu qua sách báo và trên mạng Internet?
Từ thành phố Nha Trang, chỉ 20 phút xe máy là đến thành Diên Khánh. Dấu hiệu đầu tiên là cây Dầu Đôi. Cây cổ thụ mấy trăm năm này gắn liền với nhiều sự tích về phong trào Cần Vương chống Pháp. Từ cây Dầu Đôi thẳng đường non cây số là vào cửa Đông.
Cổng thành kiến trúc theo khối vuông vững chãi, xây bằng gạch nung cỡ 4.5cm x 1.38cm gồm hai tầng: tầng dưới nối vào tường thành, mặt ngoài rộng 16.8m, cao 4.5m, xây thẳng đứng, mặt trong xây tường gạch cao khoảng 2m, cách mặt ngoài 2.5m để đổ đất vào giữa.
Cửa Hậu (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Cổng rộng 3.2m, xây gạch kiểu vòm cuốn, đỉnh cao nhất khoảng 3.5m, cánh cổng bằng gỗ lim dày. Mặt trong hai bên cổng xây tam cấp bằng gạch, rộng hơn 2m làm lối đi lên tầng trên. Tầng trên cao ngang mặt thành, hình tứ giác mỗi chiều 1.5m, cao gần 2m, xây cổ lầu mái uốn, lợp ngói âm dương, dựng lan can cao gần 1m. Đây có thể là nơi canh gác, quan sát trong, ngoài thành. Toàn bộ cổng thành không hoa văn trang trí, tên cổng ghi bằng chữ Hán.
Nhìn tổng thể, cổng thành mang dáng vẽ kiến trúc Á Đông thời ấy. Theo sử liệu, thành Diên Khánh có sáu cửa mở theo sáu cạnh tường thành. Nay chỉ còn lại bốn cửa: Đông, Tây, Tiền (Nam), Hậu (Bắc). Năm 1823, cửa Tả và cửa Hữu đã bị lấp, không còn dấu vết gì, tuy vậy có thể đoán biết hai cổng cũng nằm trên hai cạnh tường thành Tây Nam và Đông Nam. Hiện giờ, chỉ còn ba cửa được sử dụng, cửa Hậu mặt Bắc không có cổng thông hào qua khu dân cư.
Đường vào cửa Đông là đường chính qua thị trấn, phố xá khang trang mua bán tấp nập nên nhìn cổng thành cũng sáng sủa bề thế. Ngoài cũng như trong cổng có đèn xanh đỏ báo cho xe cộ vào ra. Bên trái cổng có bia tóm tắt lịch sử:
Thành Cổ Diên Khánh
(Thuộc thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh)
Thành được chúa Nguyễn xây dựng năm Quí Sửu (1793), kiến trúc theo kiểu thành trì quân sự Vauban (Pháp), nhằm để phòng thủ, án ngữ và bảo vệ vùng đất Nam Trung Bộ.
Đồng thời, đây cũng là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh Khánh Hoà qua các thời kỳ lịch sử từ năm 1802 (thời Nhà Nguyễn) đến đầu năm 1945.
Năm 1988, được bộ VH-TT xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Trung tâm quản lý di tích
Danh lam thắng cảnh Khánh Hòa 2004
Công viên (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Cổ thành mà màu sắc mới, vắng bóng rêu phong, lại còn khoác lên thành cổ những khẩu hiệu, quảng cáo trái ngược với di tích. Đây cũng là lối làm văn hóa của VN ngày nay. Nhìn xuống hai bên hào thành mới thấy rõ “văn hóa môi sinh,” đầy rác bẩn, đồ phế thải cứ như đấy là hố rác. Để khỏi mất thì giờ thăm dò linh tinh, tôi vào phòng Văn Hóa - Thể Tháo (VH-TT) huyện, anh gác cổng thấy tôi mang máy ảnh có vẻ dè dặt, đi theo tôi để chỉ đường và dặn, “Chú đừng chụp ảnh gì nhe.”
“Không tôi chỉ muốn hỏi về di tích thành Diên Khánh.” Tôi lên lầu, cảnh thật vắng, ngang qua mấy phòng chẳng thấy ai, không chắc phòng VH-TT đã có người. May quá, có một cô đang lay hoay với sổ sách.
“Xin lỗi cô, tôi là khách du lịch, tôi muốn biết di tích thanh Diên Khánh nay còn những gì hả cô.”
“Dạ ngoài bốn cửa thành chẳng còn gì ạ.”
“Tôi nghe nói còn cột cờ, sân chầu của hoàng thành?”
“Dạ không đâu, những gì ngày xưa còn lại trong thành đều được giải phóng (1) để xây dựng cơ quan như chú thấy đó. Không còn gì đâu.”
Hỏi rõ thêm vị trí chính xác của điện Thái Hòa, dinh Án Sát, dinh Tuần Vũ... cô nhân viên cười trừ, tôi đành đi tìm ba cửa thành còn lại. Băng qua một ngõ hẹp bên kia đường, không xa đã thấy cửa Hậu. Do không phải cửa ra vào nên lối đi hẹp tí và đầy rác rến dơ bẩn ngay cả trong cổng. Bên ngoài cửa Hậu là hào thành khô nước, dân làm đất trồng hoa màu theo triền bờ thành. Cửa Hậu xây cùng mẫu như cửa Đông, kích thước màu sắc không khác.
Theo lời kể của nhiều người thì sau cửa Hậu, ngày xưa trồng cây sao chi chít mục đích để giữ cho nước sông Cái không phá bờ, gọi là Hàng Sao. Nay không còn cây sao nào nhưng tên Hàng Sao vẫn thường được nhắc nhở do trong thời kỳ có phong trào Cần Vương chống Pháp, rất nhiều chiến sĩ bị hành quyết nơi đây.
Trở lui tìm cửa Tây, cửa Tây trên cùng đường với cửa Đông, đường Lý Tự Trọng, tuy nhiên từ Tây sang Đông phải vòng vèo nhiều đoạn chứ không theo một đường thẳng. Có thể khi lập hoàng thành, con đường thẳng xuyên qua hai cửa Đông Tây, về sau do nhà cửa cư dân phát triển nên phải thế. Kiến trúc cửa Tây cùng khuôn mẫu với Đông.
Cửa Tiền (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Từ cửa Tây đi về hướng cửa Đông chừng 300m rẽ phải đường Trịnh Phong ra cửa Tiền. Cửa Tiền sáng sủa sạch sẽ, chạy thẳng ra Quốc Lộ 1A. Cửa Tiền ít người qua lại, cảnh nghiêm trang phảng phất nét cổ kính.
Bốn cửa của thành Diên Khánh đều cùng một khuôn mẫu. Sử ghi trước kia mỗi cổng đều có cửa bằng gỗ lim chắc chắn, nay thì không cửa nào còn. Theo VH-TT cho biết thành Diên Khánh đã được trùng tu phục chế (cửa thành) và khơi vét thông hào quanh thành, đã làm đường xi măng chạy ven ngoài bờ hào có đèn chiếu sáng. Do ngân khoản không đủ nên công cuộc tôn tạo chưa hoàn tất (chưa đưa nước vào hào).
Tạm dừng chuyện di tích, tôi rảo qua xem một một vài công trình công cộng mới có sau này: Công viên đối diện UB Huyện Diên Khánh, tuy nhỏ nhưng cây cối xanh tươi, có hòn non bộ tạo nét thiên nhiên tươi mát, các cụ bà, lão ông có nơi hóng gió, trẻ thơ có chỗ vui chơi. Điều đáng nói là không có những “tác phẩm đá điêu khắc” với hình thù kỳ dị, nuốt bạc tỉ mà chẳng ai hiểu gì.
Ra ngoài thành chạy về hướng cầu Lùn (Nam), một hình ảnh khá lạ đập thẳng vào mắt du khách. Tôi tin những ai mới thấy lần đầu sẽ rất ngạc nhiên: Quảng cáo “Bánh ướt-bánh phở”. Quán thì tôn che tạm bợ bên đường nhưng quảng cáo thi tranh nhau lớn nhỏ. Có những bảng chỉ có hai chữ “Bánh ướt” mà to hơn chiếc chiếu.
Bánh tráng (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Diên khánh còn một hai nghề thủ công khác như chằm nón, làm bánh tráng.
Sau đây là một đoạn trích trong bài chiếc nón lá (2): “…Tôi lại theo người bạn ảnh trẻ đi thăm làng nón Diên Thủy, huyện Diên Khánh. Nghề nón ở Diên Thủy cũng theo lối thủ công cá nhân, mỗi nhà tự tổ chức làm riêng. Tôi vào thăm một nhà chằm nón mà trước đây nhiều bạn nhiếp ảnh đã đến sáng tác. Nhà có hai cô gái có tay nghề cao, dáng dấp khá, hôm nay bà mẹ cho biết cô chị đi vắng, chúng tôi ngõ ý nhờ Loan (cô em). Cô bé lại e then, cứ tìm cách chối từ. Bà mẹ và chúng tôi hết lời năn nỉ Loan mới chịu ngồi làm. Tưởng là hình ảnh sẽ không được linh động, nhưng lúc chằm (nón) cô gái tỏ ra mềm mại, thao tác nhịp nhàng và rất có thần. Nhiều kiểu rất hay, nhờ hàng chục chiếc nón làm sẵn, tôi xếp được nhiều ảnh có bố cục, đường nét khác nhau.”
Nón thì trong nhà, bánh tráng đem dựng phơi ngoài đường, suốt một ngày chiếc bánh hứng nhận bao nhiêu thứ dơ bẩn trong không khí, người dùng vẫn “vô tư”, chỉ khi vào phòng cấp cứu mới suy nghĩ. Quá muộn!
Từ thành phố Nha Trang, chỉ 20 phút xe máy là đến thành Diên Khánh. Dấu hiệu đầu tiên là cây Dầu Đôi. Cây cổ thụ mấy trăm năm này gắn liền với nhiều sự tích về phong trào Cần Vương chống Pháp. Từ cây Dầu Đôi thẳng đường non cây số là vào cửa Đông.
Cổng thành kiến trúc theo khối vuông vững chãi, xây bằng gạch nung cỡ 4.5cm x 1.38cm gồm hai tầng: tầng dưới nối vào tường thành, mặt ngoài rộng 16.8m, cao 4.5m, xây thẳng đứng, mặt trong xây tường gạch cao khoảng 2m, cách mặt ngoài 2.5m để đổ đất vào giữa.

Cổng rộng 3.2m, xây gạch kiểu vòm cuốn, đỉnh cao nhất khoảng 3.5m, cánh cổng bằng gỗ lim dày. Mặt trong hai bên cổng xây tam cấp bằng gạch, rộng hơn 2m làm lối đi lên tầng trên. Tầng trên cao ngang mặt thành, hình tứ giác mỗi chiều 1.5m, cao gần 2m, xây cổ lầu mái uốn, lợp ngói âm dương, dựng lan can cao gần 1m. Đây có thể là nơi canh gác, quan sát trong, ngoài thành. Toàn bộ cổng thành không hoa văn trang trí, tên cổng ghi bằng chữ Hán.
Nhìn tổng thể, cổng thành mang dáng vẽ kiến trúc Á Đông thời ấy. Theo sử liệu, thành Diên Khánh có sáu cửa mở theo sáu cạnh tường thành. Nay chỉ còn lại bốn cửa: Đông, Tây, Tiền (Nam), Hậu (Bắc). Năm 1823, cửa Tả và cửa Hữu đã bị lấp, không còn dấu vết gì, tuy vậy có thể đoán biết hai cổng cũng nằm trên hai cạnh tường thành Tây Nam và Đông Nam. Hiện giờ, chỉ còn ba cửa được sử dụng, cửa Hậu mặt Bắc không có cổng thông hào qua khu dân cư.
Đường vào cửa Đông là đường chính qua thị trấn, phố xá khang trang mua bán tấp nập nên nhìn cổng thành cũng sáng sủa bề thế. Ngoài cũng như trong cổng có đèn xanh đỏ báo cho xe cộ vào ra. Bên trái cổng có bia tóm tắt lịch sử:
Thành Cổ Diên Khánh
(Thuộc thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh)
Thành được chúa Nguyễn xây dựng năm Quí Sửu (1793), kiến trúc theo kiểu thành trì quân sự Vauban (Pháp), nhằm để phòng thủ, án ngữ và bảo vệ vùng đất Nam Trung Bộ.
Đồng thời, đây cũng là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh Khánh Hoà qua các thời kỳ lịch sử từ năm 1802 (thời Nhà Nguyễn) đến đầu năm 1945.
Năm 1988, được bộ VH-TT xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Trung tâm quản lý di tích
Danh lam thắng cảnh Khánh Hòa 2004
.jpg)
Cổ thành mà màu sắc mới, vắng bóng rêu phong, lại còn khoác lên thành cổ những khẩu hiệu, quảng cáo trái ngược với di tích. Đây cũng là lối làm văn hóa của VN ngày nay. Nhìn xuống hai bên hào thành mới thấy rõ “văn hóa môi sinh,” đầy rác bẩn, đồ phế thải cứ như đấy là hố rác. Để khỏi mất thì giờ thăm dò linh tinh, tôi vào phòng Văn Hóa - Thể Tháo (VH-TT) huyện, anh gác cổng thấy tôi mang máy ảnh có vẻ dè dặt, đi theo tôi để chỉ đường và dặn, “Chú đừng chụp ảnh gì nhe.”
“Không tôi chỉ muốn hỏi về di tích thành Diên Khánh.” Tôi lên lầu, cảnh thật vắng, ngang qua mấy phòng chẳng thấy ai, không chắc phòng VH-TT đã có người. May quá, có một cô đang lay hoay với sổ sách.
“Xin lỗi cô, tôi là khách du lịch, tôi muốn biết di tích thanh Diên Khánh nay còn những gì hả cô.”
“Dạ ngoài bốn cửa thành chẳng còn gì ạ.”
“Tôi nghe nói còn cột cờ, sân chầu của hoàng thành?”
“Dạ không đâu, những gì ngày xưa còn lại trong thành đều được giải phóng (1) để xây dựng cơ quan như chú thấy đó. Không còn gì đâu.”
Hỏi rõ thêm vị trí chính xác của điện Thái Hòa, dinh Án Sát, dinh Tuần Vũ... cô nhân viên cười trừ, tôi đành đi tìm ba cửa thành còn lại. Băng qua một ngõ hẹp bên kia đường, không xa đã thấy cửa Hậu. Do không phải cửa ra vào nên lối đi hẹp tí và đầy rác rến dơ bẩn ngay cả trong cổng. Bên ngoài cửa Hậu là hào thành khô nước, dân làm đất trồng hoa màu theo triền bờ thành. Cửa Hậu xây cùng mẫu như cửa Đông, kích thước màu sắc không khác.
Theo lời kể của nhiều người thì sau cửa Hậu, ngày xưa trồng cây sao chi chít mục đích để giữ cho nước sông Cái không phá bờ, gọi là Hàng Sao. Nay không còn cây sao nào nhưng tên Hàng Sao vẫn thường được nhắc nhở do trong thời kỳ có phong trào Cần Vương chống Pháp, rất nhiều chiến sĩ bị hành quyết nơi đây.
Trở lui tìm cửa Tây, cửa Tây trên cùng đường với cửa Đông, đường Lý Tự Trọng, tuy nhiên từ Tây sang Đông phải vòng vèo nhiều đoạn chứ không theo một đường thẳng. Có thể khi lập hoàng thành, con đường thẳng xuyên qua hai cửa Đông Tây, về sau do nhà cửa cư dân phát triển nên phải thế. Kiến trúc cửa Tây cùng khuôn mẫu với Đông.

Từ cửa Tây đi về hướng cửa Đông chừng 300m rẽ phải đường Trịnh Phong ra cửa Tiền. Cửa Tiền sáng sủa sạch sẽ, chạy thẳng ra Quốc Lộ 1A. Cửa Tiền ít người qua lại, cảnh nghiêm trang phảng phất nét cổ kính.
Bốn cửa của thành Diên Khánh đều cùng một khuôn mẫu. Sử ghi trước kia mỗi cổng đều có cửa bằng gỗ lim chắc chắn, nay thì không cửa nào còn. Theo VH-TT cho biết thành Diên Khánh đã được trùng tu phục chế (cửa thành) và khơi vét thông hào quanh thành, đã làm đường xi măng chạy ven ngoài bờ hào có đèn chiếu sáng. Do ngân khoản không đủ nên công cuộc tôn tạo chưa hoàn tất (chưa đưa nước vào hào).
Tạm dừng chuyện di tích, tôi rảo qua xem một một vài công trình công cộng mới có sau này: Công viên đối diện UB Huyện Diên Khánh, tuy nhỏ nhưng cây cối xanh tươi, có hòn non bộ tạo nét thiên nhiên tươi mát, các cụ bà, lão ông có nơi hóng gió, trẻ thơ có chỗ vui chơi. Điều đáng nói là không có những “tác phẩm đá điêu khắc” với hình thù kỳ dị, nuốt bạc tỉ mà chẳng ai hiểu gì.
Ra ngoài thành chạy về hướng cầu Lùn (Nam), một hình ảnh khá lạ đập thẳng vào mắt du khách. Tôi tin những ai mới thấy lần đầu sẽ rất ngạc nhiên: Quảng cáo “Bánh ướt-bánh phở”. Quán thì tôn che tạm bợ bên đường nhưng quảng cáo thi tranh nhau lớn nhỏ. Có những bảng chỉ có hai chữ “Bánh ướt” mà to hơn chiếc chiếu.
Diên khánh còn một hai nghề thủ công khác như chằm nón, làm bánh tráng.
Sau đây là một đoạn trích trong bài chiếc nón lá (2): “…Tôi lại theo người bạn ảnh trẻ đi thăm làng nón Diên Thủy, huyện Diên Khánh. Nghề nón ở Diên Thủy cũng theo lối thủ công cá nhân, mỗi nhà tự tổ chức làm riêng. Tôi vào thăm một nhà chằm nón mà trước đây nhiều bạn nhiếp ảnh đã đến sáng tác. Nhà có hai cô gái có tay nghề cao, dáng dấp khá, hôm nay bà mẹ cho biết cô chị đi vắng, chúng tôi ngõ ý nhờ Loan (cô em). Cô bé lại e then, cứ tìm cách chối từ. Bà mẹ và chúng tôi hết lời năn nỉ Loan mới chịu ngồi làm. Tưởng là hình ảnh sẽ không được linh động, nhưng lúc chằm (nón) cô gái tỏ ra mềm mại, thao tác nhịp nhàng và rất có thần. Nhiều kiểu rất hay, nhờ hàng chục chiếc nón làm sẵn, tôi xếp được nhiều ảnh có bố cục, đường nét khác nhau.”
Nón thì trong nhà, bánh tráng đem dựng phơi ngoài đường, suốt một ngày chiếc bánh hứng nhận bao nhiêu thứ dơ bẩn trong không khí, người dùng vẫn “vô tư”, chỉ khi vào phòng cấp cứu mới suy nghĩ. Quá muộn!
Phân vân về dấu tích xưa của thành Diên Khánh, tôi cố moi trí nhớ để tìm một vài bạn đồng nghiệp tại địa phương. Tôi chạy hết những con đường theo hai trục Đông Tây Nam Bắc trong thành và hỏi thăm nhiều người về các thầy giáo Lãng, Hoàng, Chiểu, Khánh, Giùm... đa số đều trả lời không biết (sinh sau 75). Gặp được một bác lớn tuổi cho hay “mấy ổng chết hết chỉ còn ông thầy Giùm mà nhà ở đâu tui cũng không nhớ. Già rồi ông thông cảm. Mà ông tìm có việc gì gấp không?”

Cửa Đông còn nét cổ (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Tôi cảm ơn và trả lời ông lão “chỉ để thăm hỏi thôi.” Tôi vừa nhớ ra một người chắc chắn biết rõ ông Giùm. Tôi chạy về Nha Trang tìm đến nhà ông Hổ, nguyên là nhân viên phòng thí vụ trước đây.
Mỗi khi dừng chân ở thành phố biển này tôi thường tạt qua thăm một số bạn cũ dạy trường Võ Tánh, rơi rớt dần chẳng còn mấy. Số còn lại thì bị tai biến, sống khật khệu cầm chừng. Điều không may cho anh bạn một thời được tiếng là cần mẫn, đứng đắn, nay cả vợ lẫn chồng đều bị stroke. Hai người xe lăn chống gậy lanh quanh trong nhà, suốt ngày làm bạn với TV.
Tôi thường ghé thăm mỗi ngày để nhờ Wifi gửi bài vở hoặc nhận tin và chuyện vãn đôi chút cho người bệnh đỡ buồn. Nhưng đã có lần tôi sửng sốt nghe chị vợ phán “Mỹ nó độc ác không tưởng được, nó rải chất độc màu da cam làm cho hàng vạn trẻ sơ sinh tật nguyền.”

Tôi hỏi nhỏ, “Chị đã nghe ai tường trình về vụ án này chưa? Đòi bồi thường $2 tỉ, tòa bác, xin 200 nghìn, chẳng có một xu. Chị là người con Phật, chị có biết Đức Đạt Lai lạt Ma đời thứ 14 của Tây Tạng. Ngài có câu nói trứ danh chị có nghe bao giờ chưa? Chị có biết Việt Khang? Cha Lý? Uyên Phương… là ai không?”
Chị lắc đầu. Tội nghiệp, ngoài các kênh VTV thì có biết gì nữa đâu, não bộ như bị luộc chín. Những trường hợp như vầy, vô phương phân giải. Tôi hỏi rõ nhà ông Giùm rồi rút lui.
Hôm sau, tôi trở lại Diên Khánh, đến đúng ngôi nhà sát bên trái cửa Tây, ngôi nhà có hàng bông giấy, chính tôi đứng ở đây chụp ảnh cổng thành mà không hay. Tôi vừa vào sân, một người đàn ông tóc bạc đi ra, tôi hỏi thăm:
“Xin lỗi tôi muốn hỏi đây phải nhà thầy Giùm?”
“Phải, tôi đây.
Tôi cười nói, “Để tôi đưa xe vào sân rồi nói chuyện.”
Chủ nhà vội “A” lên gọi to “Anh Nhung.”
Tôi vui vẻ khen, “Anh giỏi lắm còn nhận ra tôi.” Lúc vào phòng khách chủ nhà làm một hơi cả chục câu hỏi. Tôi cắt ngang:
“Tôi tìm anh từ hôm qua mà không ai biết, nay bà xã Hổ chỉ rõ tôi mới đến đây. Việc là thế này, tôi đi tìm di tích Hoàng Thành Diên Khánh nhưng phòng VH-TT huyện bảo chỉ còn bốn cửa thành. Tôi nghĩ anh là người gốc Diên Khánh và là thầy giáo ở đây cho đến ngày hưu trí thì thể nào anh cũng rõ ít nhiều chi tiết. Anh chỉ cho vị trí đích xác của điện Thái Hòa, cột cờ , sân chầu...
“Theo tôi biết chỗ trường Hoàng Hoa Thám là nơi đặt điện Thái Hòa, có cột cờ , sân chầu. Khi giải tỏa xây trường, giáo Hoàng có lượm một số gạch ca rô về lót nền.”
“Như vậy giờ có cách nào chụp ảnh những di vật ấy hoặc bất cứ thứ nào khác của Hoàng Thành xưa?”
“Tôi e chẳng còn gì, vì sau khi giáo Hoàng bị tù, nhà nước tịch thu nhà và đã phá mọi thứ để xây dựng cơ quan.”

Trường HHT vị trí hoàng thành (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
“Còn dinh Án Sát, dinh Tuần Vũ...”
“Trường HHT là điểm chính, xuống tiếp là dinh Tuần Vũ, phía dưới là dinh Tham Tri, có nhà kho, nhà lao kiên cố, phía sau trường là dinh Án Sát, sau nữa là dinh Lãnh Binh.”
“Còn các cửa thành theo anh có gì cần nói?”
“Thực sự cửa thành nguyên bản chỉ có hai cửa Đông và Tây, còn hai cửa Tiền, Hậu mới phục dựng cách nay chừng 20 năm. Ngày xưa có cửa gỗ lim để đóng cổng trong giờ giới nghiêm sau làm cửa sắt, nay thì bỏ ngõ hoàn toàn.”
Như vậy có nghĩa là tuy gọi là cổ thành với bao nhiêu dinh cơ xe ngựa một thời nay chẳng còn gì, đúng như lời bà Huyện Thanh Quan: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.” Trong khi tôi đang suy nghĩ xem còn gì tìm hiểu thêm thì ông Giùm trở lại câu chuyện ban đầu:
“Tôi nghe ông Hổ nói anh hoạt động về văn hóa nghệ thuật dữ lắm, anh đi khắp nước và viết được nhiều sách?”
“Phải nói ngay để anh hiểu, công việc của tôi chẳng qua là kết hợp nhiều ngẫu hứng bất ngờ của một người tầm thường bậc trung. Cho nên, nói hoạt động Văn hóa Nghệ Thuật e hơi quá đáng. Đã 15 năm tôi làm công việc này nhưng tôi chưa hề đứng vào hội đoàn hay trung tâm Văn hóa Nghệ thuật nào cả. Tôi như một người đi chơi rong đơn độc, ký cóp năm điều ba chuyện đăng báo mua vui. Rồi cũng ngẫu nhiên có người xúi in sách thì cũng thử xem sao. Vui thì có vui nhưng tốn kém lắm, chỉ thử vài ba cuốn, về sau phải mày mò làm tất cả mọi chuyện: đánh máy, dàn bài, insert hình, trình bày bìa, nói tóm là tự làm thành cuốn sách mẫu. Sau đó đưa in.”
“Trường HHT là điểm chính, xuống tiếp là dinh Tuần Vũ, phía dưới là dinh Tham Tri, có nhà kho, nhà lao kiên cố, phía sau trường là dinh Án Sát, sau nữa là dinh Lãnh Binh.”
“Còn các cửa thành theo anh có gì cần nói?”
“Thực sự cửa thành nguyên bản chỉ có hai cửa Đông và Tây, còn hai cửa Tiền, Hậu mới phục dựng cách nay chừng 20 năm. Ngày xưa có cửa gỗ lim để đóng cổng trong giờ giới nghiêm sau làm cửa sắt, nay thì bỏ ngõ hoàn toàn.”
Như vậy có nghĩa là tuy gọi là cổ thành với bao nhiêu dinh cơ xe ngựa một thời nay chẳng còn gì, đúng như lời bà Huyện Thanh Quan: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.” Trong khi tôi đang suy nghĩ xem còn gì tìm hiểu thêm thì ông Giùm trở lại câu chuyện ban đầu:
“Tôi nghe ông Hổ nói anh hoạt động về văn hóa nghệ thuật dữ lắm, anh đi khắp nước và viết được nhiều sách?”
“Phải nói ngay để anh hiểu, công việc của tôi chẳng qua là kết hợp nhiều ngẫu hứng bất ngờ của một người tầm thường bậc trung. Cho nên, nói hoạt động Văn hóa Nghệ Thuật e hơi quá đáng. Đã 15 năm tôi làm công việc này nhưng tôi chưa hề đứng vào hội đoàn hay trung tâm Văn hóa Nghệ thuật nào cả. Tôi như một người đi chơi rong đơn độc, ký cóp năm điều ba chuyện đăng báo mua vui. Rồi cũng ngẫu nhiên có người xúi in sách thì cũng thử xem sao. Vui thì có vui nhưng tốn kém lắm, chỉ thử vài ba cuốn, về sau phải mày mò làm tất cả mọi chuyện: đánh máy, dàn bài, insert hình, trình bày bìa, nói tóm là tự làm thành cuốn sách mẫu. Sau đó đưa in.”
“Như vậy thì vất vả lắm, lại còn chuyện anh đi khắp mọi miền để chụp ảnh, ăn ở xe pháo làm sao kham nổi?”
“Người mình vẫn thường nói Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Di chuyển bằng xe máy, đến địa phương nào thì ngoại giao cho khéo để họ cho ở nhờ, mỗi ngày gửi họ 100 nghìn cơm nước, chỉ tốn bằng 1/3 ở khách sạn vừa an toàn, mỗi khi ra ngoài không sợ mất máy móc ở nhà. Có những lúc họ cho ở không.”
“Hỏi thực anh, cho là như vậy đi thì cũng phải tốn kém lắm, anh từ xa về chứ phải ở đâu đây, chắc chắn gia đình con cái cũng phụ anh ít nhiều?”
“Tất cả những điều linh tinh của một đời người tôi đang soạn bộ Chuyện Riêng gồm 3 tập. Tập 1: Vào Đời sẽ gom góp tất cả những gì của một người từ bé đến lúc vào đời kiếm cơm (1). Nhiều anh em thấy tôi chơi cây, tự làm chậu, chơi chim tự làm lồng, viết sách tự làm sách, hỏi tôi học ở đâu? Ngoài học chữ, các môn chơi tôi chẳng học đâu cả, mà có học chẳng ai dạy. Ấy vậy mà việc chơi đã giúp tôi trong nhiều trường hợp ngặt nghèo để sống còn.”
“Thế bao nhiêu năm anh đi làm như vậy mà không gặp khó khăn gì sao?”
“Có chứ nhưng chính sự khó khăn đã giúp tôi vững vàng hơn để vươn lên trong nhiều trường hợp tưởng như phải bỏ cuộc.”
Anh bạn đồng nghiệp xem ra chưa hài lòng, nhưng thì giờ có hạn, tôi đưa địa chỉ trang Web cá nhân. “Anh có thể lên internet vào trang nhà của tôi, ở đấy có đủ thập bát ban võ nghệ, sẽ còn nhiều bất ngờ, vì đã 40 năm rồi chứ ít sao.”
Trước khi ra về, anh đưa cho tôi mượn cuốn sách dày của tác giả Ngô Văn Ban viết về Lịch sử Văn hóa Khánh Hòa. Xin sơ lược đôi nét chính về cổ thành Diên Khánh.
Thành Diên Khánh là một quần thể kiến trúc theo kiểu Vauban, một mẫu thành quân sự phổ biến vào thế kỷ XVII, XVIII ở Tây Âu và là thành thứ hai được đưa vào Việt Nam (sau thành Gia Định ở Nam Kỳ).
Diện tích khoảng 36,000m2, Tường thành hình lục giác Chu vi: 2.693m, 6 cạnh không đều nhau. Trên mỗi cạnh, tường thành lại chia ra nhiều đoạn nhỏ, uốn lượn nên các góc thành không nhô hẳn ra mà vẫn bảo đảm quan sát được hai bên. Tường thành đắp đất cao chừng 3.50m, mặt ngoài tường thành hơi dựng đứng. Mặt trong có độ thoải, đắp thành hai bậc, tạo một đường vận chuyển thuận lợi quanh thành.
Tại các góc thành, phía trong là một bãi đất khá rộng dùng làm nơi trú quân. Trên mặt thành công sự đặt đại bác đắp bằng đất, cao khoảng 2m. Bên ngoài mỗi góc thành đắp hơi nhô ra, có thể quan sát cả hai bên.
Trên tường thành, trồng tre và các loại cây có gai khác vừa giữ độ bền cho tường thành vừa tăng chướng ngại, làm một hàng rào phòng ngự.
Bên ngoài thành là hào nước sâu khoảng 3 - 4m, có đoạn sâu tới 5m. Bề rộng mặt hào cũng không đều nhau, tại các góc thành thường hẹp hơn (chừng 15m) và rộng nhất là trước các cổng thành, chừng 40m, lòng hào thường xuyên đầy nước từ sông Cái dẫn vào. Bên ngoài hào nước đắp một đường đi - gọi là đường để tuần tra, vận chuyển, dân chúng gọi là đường quan phòng.
Khi xây dựng xong (1793) thành Diên Khánh có 6 cửa Theo sử liệu cũ, bên trong vòng thành có nhiều công trình kiến trúc độc đáo: Qua khỏi cửa Tiền (cửa chính ở hướng Nam dành riêng cho nhà vua, hoàng tộc và các đại thần) là một cột cờ lớn. Sau cột cờ là hoàng cung - công trình có quy mô lớn nhất so với các công trình khác.

Hoàng cung xây theo kiểu Điện Thái Hòa ở Huế, gồm ba gian rộng chừng 40m, xung quanh có hành thoáng mát. Cột kèo được chạm trổ tinh tế, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Phần trên có cổ lầu, các mái uốn cong thanh thoát. Trên nóc gắn hai con rồng chầu một quả cầu lớn.
Trước hoàng cung là một sân gạch lớn - gọi là sân chầu - nơi các quan văn võ trong tỉnh đứng chầu khi có lễ lớn. Vị trí đứng được ghi vào cái bảng gỗ, đặt thành hai hàng hai bên, theo thứ tự từ cửu phẩm lên nhất phẩm. Giữa hoàng cung đặt một bệ gỗ lớn 3 tầng, mỗi tầng cao hơn 0.20m. Trên cùng đặt một ngai vàng.
Bên trái hoàng cung là dinh Tuần vũ, sau đó là dinh Án sát, và sau nữa là dinh Lãnh binh, phía dưới là dinh quan Tham tri.
Ngoài các dinh thự của các quan cai trị, trong thành còn có một dãy nhà kho đồ sộ chiếm hàng ngàn mét vuông và một nhà lao xây tường đá kiên cố. Tất cả các mái nhà đều lợp ngói âm dương.
Trải bao biến thiên lịch sử, Thành Diên Khánh không còn nguyên vẹn như trước. Iêng hai cổng Đông Tây gần như còn nguyên vẹn. So với những thành quách xây dựng cùng thời, trừ thành Huế, thành Diên Khánh vẫn giữ được hình dáng từ gần 200 năm nay.
Phương án trùng tu được Bộ VH-TT phê duyệt là bảo tồn các yếu tố gốc bằng cách gia cố, phục hồi phần đã mất trên cơ sở khoa học dựa theo tính truyền thống. Thế nhưng hiện tại, một số bộ phận trong khu thành cổ đã bị tu tạo sai lệch so với nguyên mẫu.
Ông Nguyễn Hữu Bài, Phó giám đốc Sở VH-TT Khánh Hòa, cho biết: "Dự án trùng tu bảo tồn cổng Đông và Tây thành cổ Diên Khánh có tổng mức đầu tư xấp xỉ 1 tỷ đồng (hơn $44,000 Mỹ kim). Đến giờ, cổng Tây đã trùng tu xong, cổng Đông cũng cơ bản hoàn thành, chỉ còn một đoạn bờ thành."

Bia màu tuồng haut (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Bia giới thiệu di tích gắn trước cổng Đông khẳng định, Thành được xây dựng năm 1793. Trong khi đó, dự án nghiên cứu chuẩn bị trùng tu thành (7/2002) do Trung tâm xây dựng miền Trung thuộc Viện Khoa Học Công Nghệ của Bộ Xây Dựng lại ghi: "Di tích thành Diên Khánh là những gì còn lại của thành được xây dựng vào năm 1813 dưới thời Gia Long."
Một số nhà khảo cổ thì giả định rằng, Thành được xây dựng từ thời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1653) và cai cơ Hùng Lộc là người đắp những sọt đất đầu tiên xây dựng thành. Điều này chứng tỏ ngành VH-TT địa phương cũng không nghiên cứu kỹ lưỡng về phương diện lịch sử trước khi khắc bia di tích này. Di tích là dấu ấn của lịch sử về không gian và thời gian.
Phục chế là dựng lại nguyên trạng, nhưng về hình thức thành Diên Khánh đã không gợi được bóng thời gian của lịch sử từ mấy trăm năm qua. Màu sơn cổng thành rất “tuồng,” y như thành giả trên sân khấu. Về di tích, không cứ gì Diên khánh mà hầu như khắp nơi, rất tùy tiện sơn phết, chắp vá... Cổ thành Huế mà cổng qua hào thành quét vôi trắng thì còn gì để nói!
Trần Công Nhung (2015)