Saturday, June 20, 2015

Hoàng Sa

Hoàng Sa - Trường Sa là hai quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam từ thời Trịnh Nguyễn, khi các chúa Nguyễn mở cỏi về phương Nam. Đây là hai đồn tiền tiêu của quân lính VN ở biển Đông thời ấy. Năm 1786 đã có hải đội ra đảo Hoàng Sa.

                                    Khu mộ gió (?) (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Hải đội Hoàng Sa là nói về các đội thủy binh do triều đình phái ra các quần đảo Hoàng - Trường Sa (Bắc Hải), tuần tra, cắm mốc chủ quyền và sưu tầm các vật quí. Lịch sử nhà Tây Sơn và triều Nguyễn đã lưu lại nhiều chứng tích về hoạt động của các đội hùng binh (Sắc lệch của Thái Đức Nguyễn Nhạc- của Gia Long - Minh Mạng).
Tuy nhiên những trang sử oai hùng của bao nhiêu lớp người đã hy sinh ngoài biển cả để gìn giữ biên cương, thời cận đại không hề nhắc đến. Thậm chí năm 1974 Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa, quân lực VNCH đã đơn phương chống trả, trên 70 chiến sĩ đã hy sinh, lại bị xem như một đòn giáng xuống đầu "ngụy quân ngụy quyền."
Nhưng, muốn hay không, đến một lúc, nhà nước cũng lui về quá khứ dựa vào sử cũ để chống đỡ kẻ chiếm nhà mình. Từ đó chủ đề Hoàng Sa - Hải đội Hoàng Sa - Hùng binh Hoàng Sa luôn nghe thấy trên các phương tiện truyền thông.(2) Điều bi hài là trận hải chiến giữa quân đội VNCH và Trung cộng lại được "nhà nước ta" trang trọng ngợi ca, và cũng chỉ trong hoàn cảnh éo le này Thủ Tướng Dũng mới bấm bụng mà gọi đích danh chính phủ VNCH và xác nhận Hoàng Sa trước 75 thuộc chủ quyền VNCH.(3)
Theo sử ghi, họ Võ là dòng họ đầu tiên đưa binh phu đi Hoàng Sa, được cả triều Tây Sơn và triều Nguyễn trọng dụng, được phong tước "Hầu" cao nhất so với các họ khác ở đây. Dòng họ này hiện còn lưu giữ tờ lệnh của năm Thái Đức Nguyễn Nhạc thứ 9 (1786) và xem đó là một bảo vật của tộc họ nên luôn được giữ gìn cẩn mật. Mỗi khi muốn lấy ra xem cả họ phải họp tại nhà thờ cai đội Võ Văn Khiết, làm lễ hương đèn cáo bạch xin phép để tỏ lòng tôn kính vong linh Tổ, vừa cho con cháu thấy giá trị của bảo vật. Phải cẩn thận như thế, vì sau 1975 miền Nam thất thủ nhiều địa phương đền miếu, di tích cổ bị phá hủy, trong đó có nhiều chiếu chỉ, sắc lệnh văn tự của thời trước.
May thay nhiều dòng họ của đảo Lý Sơn vẫn giấu được sắc lệnh vua ban liên quan đến việc ra đi thiết lập chủ quyền và giữ gìn biển đảo ở Hoàng Sa. Tờ lệnh của Thái Phó Tổng Lý quản binh dân chư vụ Thượng Tướng công được phong ngày 14-2-1786 (năm Thái Đức thứ 9 Nguyễn Nhạc), lệnh cho ông Võ Văn Khiết đưa binh phu đi Hoàng Sa thu lượm vật quí đã bị mất bản gốc. Hỏi ra được biết hồi đó có ông Diệp Định Hoa (viện Hán Nôm) và ông Trần Văn Cầu (viện Khảo cổ học) được chính quyền cử đến gia tộc họ Võ "mượn" tờ lệnh để nghiên cứu. Các ông hứa sau khi nghiên cứu xong sẽ trả lại bản gốc. Nhưng rốt cuộc họ Võ chỉ nhận được bản photocopy. Người con họ Võ (tập kết ra Bắc) đến gặp hai nhà nghiên cứu nói trên để đòi lại tờ sắc lệnh, nhưng cũng chẳng được gì.(4)

                                    Bàn thờ Võ Văn Khiết (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Từ ngày mất bản gốc của sắc lệnh, dòng họ Võ chỉ còn giữ bản photocopy. Đó là lý do tại sao sắc lệnh này công bố trễ (năm 2009) hơn các sắc lệnh của các dòng họ khác trên đảo, vì sợ thêm một lần nữa mất luôn sắc lệnh.
Gia phả họ Võ (Võ Văn Khiết chấp bút) cũng có ghi: cai đội Võ Văn Khiết là người đầu tiên ở đảo Lý Sơn ra Hoàng Sa năm 1786. Điều đáng nói là dù có quy định con trưởng ở Lý Sơn không phải sung quân đi Hoàng Sa, nhưng con cháu của ông Khiết: Võ Văn Phú, Võ Văn Hùng, Võ Văn Sanh… đều ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ. Ông Võ Văn Phú (con Võ Văn Khiết), dưới triều Minh Mạng là người hướng dẫn thủy binh ra Hoàng Sa cắm mốc chủ quyền.


                                      Các gian thờ bên trong (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Năm 1789, khi 15 ghe lớn của Tàu ô vào đảo Lý Sơn cướp phá đã bị dân đảo Lý Sơn (họ Võ cùng các họ khác) đánh đuổi.
Sau khi dẹp được quân Tây Sơn, vua Gia Long trả thù quan lại nhà Tây Sơn tàn khốc, nhưng với dòng họ Võ ở Lý Sơn, nhà vua vẫn tiếp tục trọng dụng. Vẫn giữ nguyên tước "Hầu" do nhà Tây Sơn ban cho Võ Văn Khiết (Khâm sai thiết thủ Sa Kỳ hải môn kiêm tri Hoàng Sa cai cơ thủ ngự Phú Nhuận Hầu) và còn được Vua Gia Long phong tước Hội Nghĩa Hầu. Các nhà nghiên cứu cho biết, "Chức chánh suất đội, phó vệ úy nhà triều Nguyễn ban cho các dòng họ ở Lý Sơn sau này, đều nhỏ hơn so với tước "Hầu" mà họ Võ được ban.
Cuối thôn Tây, xã An Vĩnh, có nhà thờ và mộ của cai đội Hoàng Sa Võ Văn Khiết.
Theo lời chỉ dẫn của ông Đạt (xem bài Mộ gió), tôi đi tìm thăm nơi thờ của vị Cai Đội đầu tiên ra cắm mốc chủ quyền đảo Hoàng Sa.
Có những chuyện người ở xa đến cho là quan trọng, người địa phương thì ú ớ chẳng thiết gì, tôi đã đứng ngay xóm có mộ Võ Văn Khiết nhưng hỏi ai cũng ngơ ngác, lại còn chỉ chỗ nọ chỗ kia rất mất thì giờ. Đi lần về bến tàu, hỏi mấy người lớn họ cũng tù mù lẫn lộn nhà thờ và mộ gió. Một bác cả quyết mộ gió Võ Văn Khiết là miếu ông Thắm ở thôn Tây. Ông quay sang một chị đang ẳm con nhỏ nói như ra lệnh "Mi dẫn ổng đi chút đi." Chị này lại tìm cách thoái thác bảo về làm vịt chuẩn bị cháo chiều bán. Tôi hỏi ngay:
- Quán chị chỗ nào?
- Chỗ đầu đường xuống bến tàu.

                                      Nhà thờ Võ văn Khiết (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

- Được rồi, chị giúp tí, chiều tôi ăn cháo.
Chị bán cháo vui vẻ gửi con, đạp xe đi trước tôi theo sau. Nhà thờ ngay chỗ sửa xe vào chừng 20m vậy mà mấy anh thợ chẳng hề biết.
Cổng nhà thờ khóa, tôi tần ngần chưa biết làm sao, chị bán cháo bảo, "Cửa cột giây, bác mở mà vô." Đúng là cửa chỉ quấn sơ sợi kẽm nhỏ.
Nhà thờ ba cửa vòm cao rộng, bốn cột bốn câu đối đỏ kẽ chữ vàng, hoa văn trang trí Tứ Linh hoa lá, hơi rườm rà. Ba gian cửa pa nô, có bàn thờ lộng che trước hiên, hai bàn mỗi bàn có đủ lư hương chân đèn, bàn trước thấp, thay vì khung ảnh người chết lại là khung tranh khảm xa cừ. Bàn sau cao hơn cũng một bộ tam sự bằng đồng thay vì bằng sứ. Án thờ khá trang trọng nhưng không biết thờ ai. Ba gian chánh điện cửa khép, tôi tự động vào. Ba án thờ, đầy đủ đồ tế tự: Lư hương, chân đèn, bình hoa, hạc chầu... Trên có nghi môn, cửa võng chạm trỗ công phu. Án thờ gian giữa trang trọng hơn hết, phía trước là bàn thờ gỗ quí cẩn xa cừ, đồ tế tự lớn và tinh xảo hơn.
Sau lư đồng là bức tranh gỗ khảm xa cừ cảnh trời mây. Hai hạc đỏ đặt hai bên lư hương, hai hạc vàng cao to chầu trước tủ thờ. Phía trong, bệ thờ xây thấp hơn, đồ thờ cũng đầy đủ như vậy, hai hạc gỗ sơn vàng, hai hạc đồng bài trí trên bệ đều nhỏ gọn hơn. Hai gian bên, bệ thờ thấp hơn bàn thờ gian giữa, đồ tế tự đơn giản bằng sành, chỉ có khung ảnh thờ là giống nhau. Có lẽ đây là mô tả cảnh thanh tịnh thay cho ảnh người quá cố.
Rảo quanh khuôn viên nhà thờ tìm mộ của hùng binh hải đội đầu tiên bỏ mình vì nước, tôi không thấy dấu hiệu gì. Đối diện điện thờ, sát bờ thành, có một "hoa viên" nhỏ, một bình phong đắp phù điêu ngựa, hai bên hai trụ cao, đầu trụ có tượng nghê chầu. Trước bình phong có một nền xi măng bằng mặt bàn cao hơn mười phân. Giữa có khoét lỗ trong dựng một cục đá lớn không rõ hình thù, lồi lên chừng 20cm. Hai trụ xi măng cao chừng 1m như để kềm giữ đá, có chậu kiểng trang trí hai bên. Không một chú giải nào về khu vực này. Tôi nghĩ đây có thể là mộ gió của Cai đội Võ Văn Khiết.
Cha Võ Văn Khiết là ông Võ Văn Thắm nguyên là lý trưởng làng An Vĩnh đã xin triều đình cho lập đền thờ Võ Văn Khiết tại xóm Vĩnh Thành (thôn Tây) xã An Vĩnh huyện Lý Sơn. Ngôi đền thờ nằm trong khu đất của dòng họ Võ, dân địa phương quen gọi là miếu ông Thắm.
Võ Văn Khiết và con cháu dòng họ Võ là những hùng binh tiên chinh ra Hoàng Sa, đã hy sinh mất xác để làm tròn nhiệm vụ với đất nước. Liệu những trang sử này có được truyền đạt đến lớp trẻ hôm nay, hay chỉ nhồi nhét những chủ thuyết ngoại lai, tôn vinh sùng bái những "anh hùng" xa lạ?

Nối tiếp sự nghiệp bảo vệ Hoàng Sa, sau cai đội Võ Văn Khiết là cai đội Phạm Quang Ảnh. Ông nhận lệnh nhà vua ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ.
Phạm Quang Ảnh, người làng An Vĩnh, Lý Sơn chỉ huy. Tháng giêng năm 1815 vua Gia Long phong ông làm cai đội của Đội Hoàng Sa và giao ông dẫn theo một đội quân gồm 70 người từ Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn) ra Hoàng Sa và Bắc Hải (Trường Sa) để xem xét, đo đạc thủy trình, trấn giữ Biển Đông và tìm kiếm sản vật quý. Mỗi chuyến đi bảy tháng, từ tháng Hai đến tháng Tám thì quay về để tránh mùa biển động. Những người lính ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ, ngoài những vật dụng cấp phát như lương thực ăn trong sáu tháng còn có đôi chiếu, 7 nẹp tre, 3 sợi dây mây và một thẻ (bài) ghi tên tuổi, quê quán. Đó là những thứ phòng khi có người vì sóng gió hoặc vì lý do nào khác phải chết giữa biển thì nẹp xác rồi thả xuống nước, hy vọng xác trôi về quê nhà.
Lăng mộ Phạm Quang Ảnh (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Đoàn thuyền của Phạm Quang Ảnh đã đi được nhiều chuyến thành công, nhưng rồi trong chuyến đi cuối cùng, gió bão đã nhận chìm những người con của Tổ Quốc ngoài biển khơi. Vua Gia Long đã đích thân ra tận Lý Sơn làm lễ chiêu hồn cho các tử sĩ. Một thầy Pháp nổi tiếng nhất thời bấy giờ làm chủ lễ chiêu hồn.
Thầy Pháp lên núi Giếng Tiền lấy đất sét về, nhào nặn thành hình nhân người đã chết. Hình nhân cũng quần dài, áo the, khăn xếp. Sau đó lập đàn cúng suốt đêm, chiêu hồn các tử sĩ nhập vào tượng đất rồi đem an táng như người chết bình thường.
Tìm nơi thờ ông Phạm Quang Ảnh không khó, "nhà thờ" có bảng cắm ngay con đường chính chạy quanh đảo. Nhưng nhìn từ ngoài đường không ai biết đây là nhà thờ của vị Thượng Đẳng Thần, mà chỉ là mái nhà tôn tầm thường dân dã. Tôi lưỡng lự một lúc trong lúc con chó mực sủa rân trong sân. Một lúc sau có một ông lão ra đuổi chó, tôi mới dám vào. Thấy vẻ không mấy thiện cảm của chủ nhà tôi biết tâm lý phần đông không thích bóng dáng chính quyền, nên "uốn lưỡi" tâm sự như mình là người cùng phía "nhân dân.'

                                             Âm linh tự (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

- Thưa bác, tôi ở xa đến thăm Lý Sơn và muốn tìm hiểu về các vị tiền bối đã hy sinh giữ gìn biển đảo, thực hư thế nào để nói lại cho con cháu biết, chứ không phải người ăn lương nhà nước, xin bác đừng ngại.
Y như rằng, ông già trút ngay bao nhiêu bực bội, bất mãn (1) cho tôi:
- Công lao giá trị gì mà ông tìm hiểu cho mất thì giờ. Ông thấy đó, người ta đổ bạc tỉ ra làm tượng đài xây lăng, nhà thờ này chỉ có mấy tấm tôn lợp không kín. Mà đây là nhà thờ Tổ họ Phạm chớ không phải nhà thờ Phạm Quang Ảnh.
Ông lão lấy hơi vừa nói vừa chỉ xuống đất:
- Ông coi đây, bảng này trước ghi “Di tích VHLS cấp tỉnh,” nay nhổ vứt cắm bảng khác “Nhà thờ Phạm Quang Ảnh,” khinh chê rõ ràng.
Tôi lại lựa lời trấn an ông lão:
- Tôi chắc có sự nhầm lẫn gì đây, chớ ông Ảnh ông Khiết đều là Cai Đội Hoàng Sa. Ông Ảnh lại còn được chính vua Gia Long ra Lý Sơn làm lễ chiêu hồn. Tôi sẽ ghi điều này vào bài báo. Xin lỗi, bác là hậu duệ đời thứ mấy?
- Phạm Quang Ảnh (PQA) hậu duệ đời thứ tư của Tổ họ Phạm, tôi Phạm Quang Tỉnh, hậu duệ thứ bốn của PQA.(2)
- Vậy là ông Phạm Quang Ảnh được phối thờ với Tổ họ Phạm.

                                           Mộ Phạm Hữu Nhật (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


- Đúng vậy.
- Giờ bác vui lòng cho tôi vô thăm trong nhà thờ rồi nhờ bác dẫn cho xem mộ ông Phạm Quang Ảnh.
Tôi theo ông Tỉnh vào căn nhà tôn trông tồi tàn, tuy nhiên bên trong, bộ sườn nhà gỗ xưa, ba gian thờ khá trang nghiêm sáng sủa. Ông Tỉnh không quên chỉ cho tôi bằng công nhận di tích cấp tỉnh, được lộng khung treo trên cột. Sau đó ông đưa tôi đi xem mộ.

                                         Nhà thờ Tổ họ Phạm (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Nay (2014) mộ cai đội Phạm Quang Ảnh được xây đàng hoàng nằm trong khu đất sát nhà thờ tổ họ Phạm do ông Phạm Quang Tỉnh trông coi.(3) Khu mộ gió gồm có tám mộ. Hai mộ lớn hai đầu là của ông Phạm Quang Ảnh và ông Phạm Quang Thanh, những ngôi mộ còn lại là của dòng họ Phạm. Ông Phạm Quang Ảnh được phong làm Thượng Đẳng Thần để hộ vệ và ban phúc cho người dân Lý Sơn. Nhân dân xã An Vĩnh thờ ông như thờ Thành Hoàng. Tổ quốc (trước 75) ghi nhớ công lao của ông bằng cách đặt tên một hòn đảo lớn trong nhóm đảo Lưỡi Liềm ở quần đảo Hoàng Sa là đảo Quang Ảnh.
Xuống hướng Nam chừng 200m là nhà thờ Phạm Hữu Nhật. Phạm Hữu Nhật là Chánh Đội Trưởng thủy binh suất đội của Đội Hoàng Sa. Năm Bính Thân (1836) ông nhận lệnh vua Minh Mạng đưa binh thuyền gồm khoảng 50 người đi thăm dò, đo đạc thủy trình, cắm cột mốc và dựng bia chủ quyền của triều Nguyễn tại quần đảo Hoàng Sa. Mỗi binh thuyền đem theo 10 cái bài gỗ, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, trên có khắc dòng chữ “Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, Thủy quân Chánh Đội trưởng suất đội trưởng Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ chi thử lưu đẳng tự” (nghĩa: năm Minh Mạng thứ 17, Bính Thân, Thủy quân Chánh Đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét đo đạc đến đây, để ghi nhớ).
Không biết ông đã đi được bao nhiêu chuyến, nhưng đến chuyến cuối cùng năm 1854 thì ông và thủy thủ đoàn đã bị mất tích giữa biển khơi. Gia đình, họ tộc và quê hương đã an táng ông bằng mộ chiêu hồn (mộ gió) tại thôn Đông làng An Vĩnh, bên cạnh ngôi mộ của cụ Thủy Tổ họ Phạm Văn, một trong 6 vị tiền hiền khai cư làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn. Các bộ chính sử của triều Nguyễn đều có ghi chép về sự kiện này. Hữu Nhật là tên một hòn đảo lớn nằm ở phía nam quần đảo Hoàng Sa. Các tư liệu còn lưu trữ trong Nhà thờ thứ phái họ Phạm Văn ở An Vĩnh (hiện do ông Phạm Văn Đoàn phụng tự) đã xác định Phạm Hữu Nhật tên thật là Phạm Văn Triều sinh năm 1804 mất năm 1854, con ông Phạm Văn Nhiên thuộc đời thứ tư của Thủy tổ họ Phạm Văn- một trong 13 vị tiền hiền khai phá đất đảo Lý Sơn. Vào dịp Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa 19 tháng Hai âm lịch hàng năm, dòng họ Phạm Văn cúng tế vị tiền hiền Phạm Hữu Nhật bên cạnh việc tưởng nhớ các vị tham gia Đội Hoàng Sa đã hy sinh vì đất nước.
Tôi đứng trước thềm nhà thờ một lúc lâu mới có người đàn bà bước ra. Hỏi thăm nhà thờ Chánh Đội Trưởng Phạm Hữu Nhật, bà cho biết đây là nhà thờ Tổ Phạm Văn. Còn nhà thờ Phạm Hữu Nhật phía bên kia, bà chỉ cho tôi ra đường cái rồi vòng vào ngôi nhà ngói phía sau, do hậu duệ Phạm Văn Đoàn chăm sóc. Căn nhà gỗ xưa, ba gian hai chái còn nguyên, mái đã thay do bão số 9.
Nói về Hải Đội Hoàng Sa từ Tây Sơn xuyên suốt các triều đại nhà Nguyễn biết bao nhiêu chiến binh đã hy sinh.
 


Di tích văn hóa? (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
 

Những khúc tráng ca bi hùng về Phạm Quang Ảnh và đội hùng binh giữ đảo như một lời thề nhắn gửi với thế hệ mai sau về bài ca dựng nước và giữ nước của cha ông. Những câu chuyện ấy đã, đang và sẽ khắc sâu vào tâm khảm các thế hệ người Việt Nam quốc nội cũng như hải ngoại, lời thề bằng máu đào: Hoàng Sa, Trường Sa mãi mãi là một phần da thịt thiêng liêng của mẹ Việt Nam.
Trần Công Nhung
Lý Sơn 2014
______________________________________
(1) Chữ của của các tsVN là “bức xúc”.
(2) Nhiều tài liệu ghi ông Tỉnh là hậu duệ đời thứ 5 thứ 6, nhưng ông Tỉnh xác nhận ông là hậu duệ đời thứ tư của ông PQA. Và, PQA là hậu duệ thứ tư của Tổ họ Phạm. Nhà thờ Tổ họ Phạm không phải nhà thờ Phạm Quang Ảnh như nhà nước gọi và cắm bảng trước cổng.



                                       Nhà thờ họ Phạm Văn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
Trần Công Nhung (2014)

Lý Sơn

Lịch sử đã chứng minh từ Văn Lang đến Đại Việt, nước ta từ Bắc đổ dần Nam. Có những thời kỳ nội chiến triền miên nhưng việc mở mang bờ cõi vẫn không ngừng. Ngay cả hôn quân Lê Chiêu Thống cũng không xẻ thịt tổ quốc bán ăn. Qua triều Nguyễn nước Việt đã nối dài xuống tận Châu Đốc Cà Mau. Người Việt không chỉ ở trong đất liền mà còn tìm ra các đảo như Phú Quốc (Kiên Giang) Phú Quí (Bình Thuận), Cù Lao Chàm (Hội An), Lý Sơn (Quảng Ngãi)...
Hôm ra Lý Sơn tôi gặp cụ Nguyễn Hữu Đạt, người cao tuổi nhất thuộc dòng họ lâu đời ở Lý Sơn cho biết ngôi nhà cổ của cụ đã qua bốn đời gần 200 năm. Như vậy người Lý Sơn đã đến định cư từ thời đầu nhà Nguyễn. Cũng qua sử cũ thì người Việt ra khai hoang lập ấp ở Lý Sơn vào đầu thế kỷ XVII, muộn hơn ở đất liền ít nhất một thế kỷ.(1) Theo gia phả của các dòng họ đầu tiên ra khai phá đảo, thì hầu hết từ đất liền Quảng Ngãi, chứ không phải từ Bắc vào. Nhiều người gốc Huế, vào Quảng Ngãi định cư ở Rừng Lăng, sau chuyển xuống vùng Tịnh Long, Tịnh Châu, Tịnh Kỳ... trước khi ra đảo Lý Sơn.
Lưới cá cơm. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Trực nhìn ngó thấy Bàn Than
Ba hòn lao Ré nằm ngang Sa Kỳ
Đó là hai câu cửa miệng của người Quảng Ngãi mô tả đảo Lý Sơn. Huyện đảo mới thành lập sau này, gồm hai đảo nằm sát cạnh nhau: đảo Lớn và đảo Bé, tổng diện tích gần 10km2. Một con đường(2) độc nhất chạy vòng quanh đảo lớn, qua những vùng trồng tỏi, dưa hấu, bắp, v.v.. Đảo có hơn 20 ngàn dân, với 550 ha trồng hành tỏi, rau dưa và đánh cá xa bờ. Hiện nay Lý Sơn có khoảng 500 thuyền đánh cá. Tuy là một huyện đảo có đầy đủ các đơn vị hành chánh, đời sống người dân có vẻ rời rạc và độc lập (mạnh ai nấy làm).

                                     Ghe đánh cá xa bờ. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Đánh cá là nghề chính của dân Lý Sơn, sống chết với biển cả. Gần 200 năm qua, Lý Sơn đã có cả nghìn người già trẻ gửi thây vào lòng đại dương mỗi khi thuyền gặp bão lớn ngoài khơi. Trong vòng mươi năm trở lại, Trung Cộng thường xuyên xua tàu qua đuổi thuyền cá của ngư dân VN mà phần lớn là dân Lý Sơn và Quảng Ngãi. Trung cộng tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của họ và cấm ghe thuyền nước khác đến gần. Ngư dân Lý Sơn là nạn nhân nặng nhất. Có những lần tàu cá bị đâm chìm, tài sản trên tàu bị tịch thu, người bị bắt, bị đánh đập đưa về Hải Nam và đòi tiền chuộc.
Trăm tội đổ lên đầu, người dân Lý Sơn tự xoay sở đi vay ngân hàng để chuộc người về. "Nhà nước ta" thì chỉ ghi nhận "tàu lạ" khuấy phá, coi như không có gì xảy ra. "Biển đông không có gì lạ"- "chỉ là chuyện anh em trong nhà" v.v. "16 chữ vàng, 4 tốt vẫn sáng ngời tình hữu nghị"- "Hoàng Sa - Trường Sa, chúng ta có đầy đủ bằng chứng chủ quyền không chối cãi"... cứ thế loa phường rao ngày này qua ngày khác. Ngoài khơi mặc tình cho giặc Tàu ức hiếp. "Nhà nước ta" cứ ôm "bằng chứng không chối cãi" và "tình hữu nghị bền vững" cho đến khi Tàu đưa giàn khoan HD891 vào Hoàng Sa cách Lý Sơn 120 hải lý, mới lên tiếng phân bua với thế giới. Đến mùa bão và trước những lời cảnh báo của Hoa Kỳ, Tàu rút giàn khoan HD891 về, coi như "ta thắng lợi"(!)


                                                Hải sản. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Đời sống của dân Lý Sơn bấp bênh và muôn vàn cực khổ mà không biết kêu ai, kêu nơi nào. Một anh Tây quốc tịch Việt, anh Hồ Cương Quyết quá "bức xúc”(3) nên đã ra Lý Sơn ăn nằm mấy tháng (2011) để làm cuốn phim "Hoàng Sa - Nỗi đau mất mát." Trong lời nói đầu có đoạn: “Bộ phim là tiếng nói chân thật của các ngư dân miền Trung bị tàu Trung Quốc cướp bóc, đánh đập, hành hạ tại vùng biển đảo Hoàng Sa của Việt Nam."(4)
Điều đáng buồn là một anh Tây, một người nước ngoài thấm thía được nổi đau xót mất mát của người dân Lý Sơn, thì chính nhà chức trách VN tại Sài Gòn lại hoàn toàn vô cảm: cấm chiếu film này vì không có "tính đảng."

                                     Đèn soi tự chế. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Trong khi cuốn phim được đón nhận nồng nhiệt tại nhiều nước ở Âu Châu và thu được một số tiền lớn. Andre' Menras đã trở lại Lý Sơn hỗ trợ cho các gia đình bị nạn một phần nào gánh nặng nợ nần (tiền chuộc người, tiền vay đóng thuyền, tiền ma chay... mỗi gia đình còn nợ từ 100 đến 400 triệu đồng ($4,600-$18,000 Mỹ kim).
Trước bao nhiêu mất mát do bão tố, do giặc Tàu, ngư dân Lý Sơn vẫn vững đôi chân, vững tay chèo để ngày ngày tiếp tục ra khơi tìm nguồn sống. Người không đi biển thì canh tác trên bờ. Trong khi đi tìm mộ gió tôi ghé qua một nhà hai vợ chồng đang chuẩn bị dọn đất trồng hoa màu. Thấy có bày bán dưa hấu, tôi mua một trái bự mà giá chỉ 6,000 đồng (30cent), quả dưa đỏ au ngọt lịm. Không biết dưa thời An Tiêm ngày xưa có ngọt như vầy chăng, ngọt đậm và mộng nước. Người chồng đang bằm nhỏ một đống dây dưa hấu, anh cho biết bằm để dọn đất trồng bắp. Tôi hỏi anh:
- Dọn đất nghĩa là sao anh?
- Muốn cây lên tốt đất phải dọn kỹ, có bốn lớp: Ngoài lớp đất có sẵn, rải lên một lớp rong biển hoặc dây dưa hấu bằm nhỏ, lớp kế là đất đen (nham thạch) lấy trên núi, và trên cùng là lớp cát trắng lấy ngoài biển.
                                                     Tỏi. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

- Sao không dùng cát trên bờ?
- Cát hút ngoài biển có nhiều thứ như vỏ sò, san hô tốt cho cây. Cây trồng xuống ngang lớp đất đen thôi. Khi cây bén rễ sẽ ăn dần xuống lớp dưới.
- Một lần làm đất trồng được mấy mùa?
- Trồng 5 vụ: Tỏi hành, bắp, đậu mè, dưa hấu, rau xanh. Cứ thu hoạch thứ này trồng thứ khác liền.
- Sản phẩm thu hoạch xong rồi bán đi đâu?
- Có thương lái trong đất liền ra mua.
- Một ký tỏi thường giá bao nhiêu?
- 50 nghìn ($2.30). Còn tỏi mồ côi thì mắt gấp mười.
- Tỏi mồ côi là sao chị?

                                                 Tỏi mồ côi. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


- Là tỏi củ chỉ có một tép thôi. Tỏi này người ta ngâm rượu làm thuốc trị nhiều bệnh.
Lúc ngang qua một đám ruộng tỏi, tôi ngạc nhiên khi thấy nhiều ống phun nước tưới. Hóa ra ở Ly Sơn áp dụng lối phun tưới kiểu công nghiệp Tây phương, trong đất liền làm gì có. Tôi hỏi người đàn ông đứng gần đấy, anh ta chỉ cho tôi chiếc máy bơm nhỏ đang chạy xè xè ở góc ruộng và giải thích:
- Máy hút nước lên đẩy qua hệ thống ống phun.
- Máy bơm lấy nước từ đâu?
- Từ giếng khoan sẵn.
- Lắp đặt bơm phun như vầy có tốn lắm không anh?
- 1 sào tốn chừng 3 triệu ($140).
Ai cũng nghĩ ở đảo đặc sản là cá tôm cua, nhưng thực tế hầu hết hàng quán đều bán gà vịt, heo, bò. Thậm chí ốc cũng lấy ốc bưu trong đất liền. Sáng sớm ngay bến tàu có chợ cá bán đủ thứ cá biển: Mú, hố, hồng, cá hồng có con lớn gần 5 kg, giá 110 nghìn đồng 1kg. Có con cá lạ, cá chìa vôi dài hơn mét, giá 150 nghìn, nhà hàng trong đất liền 300 nghìn/con. Ốc thì đủ thứ, đặc biệt cua huỳnh đế lớn như cái đĩa bàn. Loại cua này màu sắc có vẻ "hoàng tộc," trong đất liền ít thấy. Người bán có sẵn nước đá, thùng xốp, đóng cá cho khách mang đi. Đa số là các bà, còn các cô thì chỉ xem qua.
Do nhu cầu nghề nghiệp người Lý Sơn cũng tự chế ra những đồ dùng để đi biển. Đặc biệt là đèn lặn. Chúing ta thường thấy người nhái mang bình hơi và đèn ngay trên người khi lặn. Dân chài làm gì có những thứ ấy, bình hơi là "nín thở," đèn là kéo từ bình ắc qui hay máy nổ trên thuyền. Người Lý Sơn đã chế ra loại đèn điện bằng cách: dùng những chai thủy tinh lớn, cắt bỏ phần cổ, phần còn lại như một cái ly lớn. Bóng đèn sau khi đã hàn 2 mối giây, cho vào cốc chai. Bấy giờ miệng lót ni-lông và đổ vào một loại sáp khằng cứng tất cả lại để lúc đưa đèn xuống biển nước không vào. Công việc do một người đàn bà làm. Không biết qua quá trình sử dụng, mức độ an toàn ra sao, nếu vì một lý do nào đó, đang lặn sâu mà nước vào bóng đèn thì chuyện gì xảy ra!
Nhìn chung đời sống của dân Lý Sơn trầm trầm như một thôn làng xưa nay.(5) Chỉ khi đi sâu vào nỗi bất hạnh của dân chài mới thấy lòng can đảm, nỗi đau mất mát và sức chịu đựng của họ như thế nào. Điều này ngày nay cả thế giới đều thấy, đều biết, nhưng dân Việt thì không mấy người.
Trần Công Nhung
2014
                                                    Đất trồng. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)
(1) Thời ấy việc "chuyển vùng" sinh sống hoàn toàn tự do, không có chủ trương "kinh tế mới" như ở miền Nam sau 75.
(2) Đường bê tông tốt xấu không đều và chỉ được một đoạn từ bến tàu xuống khu hành chánh huyện, qua dinh Tam Tòa, còn thì đường đất quanh co, chỗ rộng chỗ hẹp.
(3) Đáng lý phải nói căm phẫn, tức giận, điên tiết...nhưng do anh là "cháu nội" ông Hồ nên ghi "bức xúc" cho đúng "điệu"!
(4) Tuy "cháu nội bác" nói thế nhưng "cơ quan chức năng" không tin cho là HCQ phịa, bị "bọn xấu" xúi dục đặt điều vu khống "bạn".
(5) Ngày tôi ra Lý Sơn, điện do máy nổ cung cấp, nhưng 5 giờ chiều mới có. Sau tháng 9 /14 lưới điện quốc gia đã kéo ra Lý Sơn.



                                             Dưa hấu. (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Sông Gianh và lịch sử


Việt Nam là một nước có địa thế rất đặc biệt, có thể nói đặc biệt nhất thế giới. Một dãi đất hình chữ S thon thả chạy dài từ Bắc xuống Nam, ôm nguyên bờ biển dài từ Móng Cái đến Cà Mau. Dãy Trường Sơn là bức trường thành che chắn bao bọc từ biên giới miền Đông Bắc lên Tây Bắc rồi xuôi Nam đến tận Tây Ninh - Châu Đốc. Giữa biển và núi là đồng bằng cò bay thẳng cánh, là rừng già nhiều gỗ quí, là quặng mỏ vàng kẽm sắt... Huyết mạch nối liền sơn thủy là những dòng sông. Những dòng sông phân bổ đều từ Bắc chí Nam: Sông Hồng - sông Bạch Đằng - sông Đáy - sông Lam - sông Mã - sông Cả - sông Gianh - sông Bến Hải - sông Thạch Hãn - sông Mỹ Chánh - sông Bồ - sông Hương, v.v.(1) cuối cùng là Cửu Long giang, mỗi năm cung cấp phù sa làm giàu vùng đồng bằng Nam Bộ.

Đúng như lời người xưa "Rừng vàng biển bạc." Có lẽ thừa hưởng một gia tài phong phú đồ sộ như thế nên lịch sử VN qua mấy nghìn năm vẫn chìm đắm trong chiến tranh tranh chấp quyền lực. Không chỉ chống ngoại xâm, còn triệt nhau vì dòng tộc, vì thể chế, vì phe đảng...
Khi có chiến tranh, mỗi bên phải tìm cách lập phòng tuyến theo sông án ngữ, hoặc đắp thành phòng vệ khi bị tấn công. Quảng Bình có hai di tích đậm nét được ghi vào sử sách: sông Gianh và Lũy Thầy.
Lũy Thầy ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.


Sông Gianh qua huyện Tuyên Hóa (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Hai câu ca dao được dân Quảng Bình truyền tụng xưa nay là để nhắc nhở ý nghĩa nói trên. Trong bài này chúng ta cùng tìm hiểu sứ mạng sông Gianh qua các thời kỳ từ hơn hai thế kỷ trước.
Nói về những con sông gắn liền với vận nước thăng trầm - vinh cũng như nhục - xưa nay có nhiều: Nhị Hà chôn quân Nam Hán, Bạch Đằng Giang chôn quân Minh, sông Cầu chôn quân Tống. Sông Bến Hải do ngoại bang định lằn ranh chia đôi đất nước, riêng sông Gianh do tranh chấp giữa Trịnh Nguyễn mà thành ranh giới Đàng Trong - Đàng Ngoài ngót 200 năm.(2)
Sông Gianh là con sông lớn nhất, trong 5 con sông của tỉnh Quảng Bình,(3) bắt nguồn từ ven núi Cô Pi cao 2,017m thuộc dãy Trường Sơn, qua các huyện Minh Hóa, Tuyên Hoá, Quảng Trạch, Bố Trạch rồi đổ ra biển ở cửa Gianh.


Sông Gianh trên thượng nguồn (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Phía dưới thị trấn Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm dòng sông Son chảy ra từ khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng.
Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua Quốc Lộ 1 ở Tây Bắc Cửa Gianh 5 km. Đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47km.
Trong lịch sử, sông Gianh được gọi là Linh Giang. Nếu Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939 Ngô Quyền) thì sông Gianh là ranh giới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786). Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới Bắc Nam là sông Gianh, bên bờ Bắc có chợ Ba Đồn, nơi quân Trịnh mua thực phẩm và trao đổi hàng hóa. Bờ Nam có một số thành lũy do Đào Duy Từ tổ chức xây đắp, luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km.(4)


                                    Sông Gianh qua Minh Hóa (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Gần mười tám thế kỷ đã đi qua, trên mảnh đất Nam Bắc ở cuối dòng sông Đại Linh Giang này, những người dân ở đây nối tiếp nhau, đi qua nhiều thế hệ đã chứng kiến biết bao nhiêu cuộc chiến đẫm máu và đau thương. Trước đó từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XI mảnh đất Quảng Bình là vùng tranh chấp giữa hai vương quốc Chăm Pa và Đại Việt, vùng Nam Bắc Sông Gianh liên miên sống trong khói lửa binh đao... Năm 1285 quân Toa Đô (Nguyên Mông) từ Chiêm Thành đánh vào phủ Bố Chính; nhân dân Bố Chính đã thực hiện chủ trương vườn không nhà trống chống quân Nguyên Mông (thế kỷ thứ XIII). Thời Hậu Trần và thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống quân Minh nhân dân phủ Tân Bình (Quảng Bình nói chung) và nhân dân hai bên bờ Nam Bắc sông Gianh nói riêng, đã cùng nghĩa quân do Trần Quý Kháng chỉ huy (Thế kỷ XV) anh dũng chống giặc Minh. Tháng Tám năm 1425 sau khi vây thành Nghệ An, Lê Lợi phái tướng quân Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ đem một nghìn quân, một thớt voi chiến vượt sông Gianh vào đánh quân Minh lấy lại Tân Bình - Thuận Hoá, nhân dân hai bờ Nam Bắc sông Linh Giang hân hoan trở lại đời sống hòa bình.
Khi Pháp qua đô hộ Việt Nam, tại đoạn Quốc Lộ 1 đi qua Quảng Bình, chúng cho xây bến phà Gianh (năm 1886). Bến phà Gianh nằm ở hạ Lưu sông Gianh, cách cửa biển về phía tây 2 km. Đây cũng là phương tiện để người và xe cộ qua lại ra Bắc vào Nam.


                                  Sông Son đổ vào sông Gianh (Trần Công Nhung/Viễn Đông)

Ngày nay dài theo sông là những xóm làng thuần nông, làng nghề. Làng nghề nằm ở hạ lưu sông Gianh (nón lá, bánh đa, bánh đúc Tân An đậm đà hương vị). Khúc sông Gianh chạy qua xã Phù Hóa dài chừng 4 cây số là vùng giao thoa giữa nước lợ và nước ngọt. Làng Phù Hoá nghèo nhưng dân ham học. Xuôi tiếp về hạ lưu sông Gianh, đến đoạn qua hai xã Quảng Hải và Quảng Thanh, nước sông đã bắt đầu có độ mặn.
Nơi miền sơn cước có một ngôi làng Lệ Sơn lưng tựa vào 99 ngọn núi, mặt hướng ra dòng sông Gianh cuồn cuộn sóng vỗ, từ hàng trăm năm trước đây là làng đứng đầu trong bát danh hương Quảng Bình về tinh thần hiếu học và cần cù của người dân nơi đây. Tương truyền từng có 100 con chim phượng hoàng rủ nhau bay đậu ở núi làng Lệ Sơn nên địa danh này là vùng đất linh, cảnh sắc non bồng thủy tú như tranh thủy mạc. Đôi bờ sông Gianh với cảnh sắc tuyệt mỹ của núi non sông nước, được lưu truyền từ bao đời nay. Người dân cho biết nơi đây nổi tiếng với món chắt chắt (loài hến nhỏ) xào lá lốt hay mít non, rau muống thái nhỏ ăn với bánh tráng. Khúc sông Gianh ngang qua ba xã Văn Hóa, Cảnh Hóa và Phù Hóa có loài Bống Cát nước ngọt. Đem cá xóc muối rồi rim khô ăn với cháo trắng hoặc cơm nóng. Tóm tắt cho đến nay dân chúng vùng sông Gianh vẫn sống đời đạm bạc thô sơ, chưa có dấu hiệu gì vươn lên như nhiều địa phương khác.

Cầu Gianh (Trần Công Nhung/Viễn Đông)


Nhiều năm sau 75 một cây cầu xây theo mô thức tiên tiến bắc qua sông Gianh giúp sự giao thông dễ dàng nhanh chóng hơn. Từ khi có cầu, phà Gianh chẳng còn ai nhớ, đường xuống phà cũng như cảnh trí chung quanh bị phai nhạt dần. Dẫu thế nào, vai trò lịch sử của sông Gianh vẫn mãi mãi được ghi trong sách sử cũng như trong tâm thức mọi người.
Trần Công Nhung
2014
(1) Tạm kể như vậy chứ không sao đếm hết sông ngòi qua từng tỉnh-213 sông.
(2) Trong trời Trịnh Nguyễn phân tranh có lúc người dân hoang mang không biết theo ai nên có câu:
“Sông Gianh nước chảy một dòng,
Đèn chong hai ngọn biết trông ngọn nào ... "
(3) Năm sông lớn là sông Gianh, sông Ròon, sông Nhật Lệ (hợp lưu của sông Kiến Giang và Long Đại), sông Lý Hòa và sông Dinh với tổng lưu lượng 4 tỷ m³/năm. Các sông này do nhiều lưu vực hợp thành và đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ ra biển.
(4) Sẽ nói rõ trong bài Lũy Thầy